Bản án 51/2019/HS-ST ngày 22/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 51/2019/HS-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2019/TLST-HS ngày  25  tháng  3  năm  2019  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị A. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1973

Tại: Điện Biên.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Bản M, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn C (Đã chết) và con bà: Lò Thị U (Đã chết); Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 25/12/2018 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Sáu. Là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 25/12/2018, Lò Thị A đi từ nhà đến trung tâm Y  tế  xã  Mường  Pồn,  huyện  Điện  Biên  để  uống  Methadone.  Sau  khi  uống Methadone xong, A đi bộ ra đầu bản L, xã M, huyện Đ với mục đích tìm mua Heroine về để sử dụng. Tại đây A đã mua được 01 cục Heroine với giá 100.000 đồng của một người đàn ông dân tộc Mông (A không biết tên và địa chỉ). Sau khi mua được, A cầm cục Heroine trên tay phải rồi đi bộ về nhà. Hồi 08 giờ 00 phút cùng ngày, khi A đi bộ đế khu vực bản L, xã M, huyện Đ thì bị tổ công tác Đồn Biên Phòng Mường Pồn phát hiện, bắt quả tang thu giữ trên tay phải của A 01 cục Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 25/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và Kết luận giám định số: 176/GĐ - PC09 ngày 03/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Lò Thị A là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,11 gam.

Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSĐB ngày 25/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Thị A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội  "Tàng trữ trái phép chất ma túy " đề nghị Hội đồng xét xử ap dụng Điểm  c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Lò Thị A từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,11 gam heroine (Đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng khoản  2  Điều  136/BLTTHS;   điểm  đ  khoản  1  Điều  12  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14  ngày  30/12/2016  của  Ủy  ban  Thường  vụ  Quốc  Hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bà Trần Thị Sáu bào chữa cho bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên về việc truy tố và xét xử Lò Thị A về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Lò Thị A đã thành khẩn khai báo, bản thân A là người dân tộc thiểu số nhận thức thức pháp luật còn hạn chế, hiện tại A mắc căn bệnh truyền nhiễm HIV, khối lượng heroine bị cáo tàng trữ không lớn. Hậu quả của hành vi mà A phạm phải đã kịp thời được cơ quan chức năng phát hiện, ngăn chặn. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Áp dụng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt đối với Lò Thị A. Đề nghị hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, không bổ sung gì vào lời bào chữa của người bào chữa. Hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Kiểm sát viên đối đáp: Người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51/BLHS do bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế và bị cáo đang mắc căn bệnh truyền nhiễm HIV. Kiểm sát viên không đề nghị HĐXX áp dụng bởi, tại nơi cư trú, bị cáo đã được chính quyền địa phương tuyên truyền về tác hại của ma túy, tại phiên tòa bị cáo khai bản thân nhận thức rõ được tác hại của ma túy, nhưng vì nghiện ma túy đã không làm chủ được bản thân và cố tình vi phạm. Bị cáo đang mắc căn bệnh HIV tuy nhiên hiện nay chưa có nhiễm trùng cơ hội vẫn có khả năng tự chăm sóc bản thân. Về đề nghị áp dụng hình phạt: Kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét về khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ và nhân thân của bị cáo để áp dụng mức hình phạt phù hợp. Ngoài nội dung trên không ai tranh luận gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 25/12/2018, bị cáo Lò Thị A đã có hành vi đi mua 0,11 gam heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đang trên đường về nhà thì bị tổ công tác đồn Biên Phòng Mường Pồn phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Khối lượng heroine bị cáo tàng trữ là 0,11 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện tội phạm do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn trong xã hội.

 [4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Mường Pồn, huyện Điện Biên, bản thân không biết chữ tuy nhiên tại nơi cư trú bị cáo được chính quyền địa phương tuyên truyền tác hại của ma túy, tại phiên tòa bị cáo khai nhận thức được tác hại của ma túy. Hiện nay bị cáo đang nhiễm căn bệnh HIV tuy nhiên căn bệnh của bị cáo chưa chuyển giai đoạn AIDS không có các nhiễm trùng cơ hội, bị cáo vẫn tự chăm sóc được bản thân. Vì vậy đề nghị của người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 điều 51/BLHS, HĐXX không chấp nhận. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

 [5] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, tài sản không có gì, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [7] Trong quá trình điều tra bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông, bị cáo không biết tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

 [8] Vật chứng: Gồm 0,11 gam heroine (Đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

 [9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS;  điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ  nghèo, tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo. Vì vậy theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Thị A 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 25/12/2018.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu tiêu huỷ Gồm 0,11 gam heroine (Đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại).

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 01/4/2019.

4.   Án   phí: Căn cứ điểm đ  khoản  1 Điều 12 Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14  ngày  30/12/2016  của  Ủy  ban  Thường  vụ  Quốc  Hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 22/4/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2019/HS-ST ngày 22/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;