Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN 

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 865/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 05 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 91/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị T, sinh năm 1978.

Địa chỉ: P 02, số 40/2, kĐT1, p MP, tpLX, tAG (có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Trương Đình Q, sinh năm 1970.

Địa chỉ: P 02, số 40/2, kĐT1, p MP, tpLX, tAG

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18/10/2018; đơn khởi kiện bổ sung ngày 18/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Bùi Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Bà T và ông Q do tìm hiểu rồi quen biết nhau, sau đó tiến đến hôn nhân tổ chức lễ cưới vào năm 1998 có đăng ký kết hôn tại UBND phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An G theo giấy chứng nhận kết hôn bản sao số 98/KH.MP, quyển số 01/01 đăng ký vào ngày 24/7/2001, hôn nhân lần thứ nhất của ông bà. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu Tẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, xung đột xảy ra thường xuyên, ông Q thường hay nhậu có thái độ nói những lời lẽ rất khó nghe và không có trách nhiệm lo cho gia đình, vì vậy ông bà đã ly thân với nhau từ tháng 10/2018 cho đến nay. Nay bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu Tẫn ngày thêm trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho bà được ly hôn với ông Q.

Về quan hệ con chung: Bà Bùi Thị T và ông Trương Đình Q có ba con chung tên Trương Đình Lệ T, sinh ngày 12/02/2000, Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và Trương Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007. Khi ly hôn bà T yêu cầu trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung tên Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và Trương Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi hai con chung. Đối với Trương Đình Lệ T, sinh ngày 12/02/2000 con chung đã thành niên có khả năng lao động và tự lập được không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Trương Đình Q vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án; không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến qua yêu cầu ly hôn của bà T.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Nguyên đơn bà Bùi Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà T có đơn đề ngày 25/6/2019 yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt.

Bị đơn ông Trương Đình Q vắng mặt, không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung tranh chấp: Bà Bùi Thị T xin ly hôn với ông Trương Đình Q. Bà T trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu Tẫn và sống ly thân từ tháng 10/2018 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Q. Ngoài ra, Tòa án cũng nhiều lần cũng tổ chức hòa giải nhưng bà T vẫn luôn kiên quyết xin ly hôn. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà T là có cơ sở để chấp nhận theo quy định tại Điều 51, Điều 56 luật hôn nhân và gia đình Về quan hệ con chung: Bà T có yêu cầu được chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung chưa thành niên của bà và ông Q là các cháu Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và Trương Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007. Ông Q không có ý kiến đối với yêu cầu của bà T nên đề xuất giao hai con chung cho bà T tiếp tục, chăm sóc,nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu G và K căn cứ tại các Điều 58 Điều 81 Điều 82 Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về chi phí cấp dưỡng nuôi hai con chung do bà T không có yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi hai con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Đối với Trương Đình Lệ T, sinh ngày 12/02/2000 con chung đã thành niên có khả năng lao động và tự lập được không yêu cầu Tòa án giải quyết Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xet xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà T tranh chấp ly hôn với ông Q, tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án Tộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An G theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý và giải quyết.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, bà Bùi Thị T có đề ngày 25/6/2019 đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà do bận công việc.

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đối với phiên tòa được mở lần thứ nhất và Quyết định hoãn phiên tòa đối với phiên tòa hôm nay nhưng ông Q vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T. Đồng thời Tòa án tiến hành biện pháp T thập chứng cứ để xác minh tình trạng cư trú của ông Trương Đình Q và được công an phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An G cung cấp thông tin: Ông Trương Đình Q, sinh năm 1970 có đăng ký hộ khẩu thường trú phòng số 02, số 40/2, khóm Đông Thịnh 1, phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An G. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét x ử tiến hành xét xử vắng mặt bà Bùi Thị T và ông Trương Đình Q.

[3] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà T và ông Q dựa trên cơ sợ tự nguyện của đôi bên, có tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An G cấp giấy chứng nhận kết hôn số 98/KH.MP, quyển số 01/01 ngày 24/7/2001 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Tuy nhiên, quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu Tẫn, bà T trình bày nguyên nhân mâu Tẫn xuất phát từ sự bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng thời gian dài không hàn gắn được nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 10/2018 cho đến nay. Nhận thấy hôn nhân không còn mang lại hạnh phúc nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông Q.

Xét thấy, mâu Tẫn trong cuộc sống hôn nhân của bà T và ông Q đã kéo dài một thời gian. Từ khi ly thân, vợ chồng không thường xuyên gặp gở, chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Bùi Thị T.

[4] Về nuôi con chung: Bà T và ông Q có ba con chung tên Trương Đình Lệ T, sinh ngày 12/02/2000, Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và Trương Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007. Từ khi vợ chồng ly thân, bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và Trương Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007 đến nay. Tại biên bản lấy lời khai của hai cháu G và K ngày 15/02/2019 thể hiện cháu G và cháu K có nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với mẹ. Do đó, để tạo điều kiện Tận lợi cho việc phát triển tốt về thể chất, tinh thần cũng như đảm bảo cho việc học tập của cháu G và cháu K, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà T giao cháu Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và cháu Trường Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007 cho bà T tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi hai con chung, đây là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên do bà T không có yêu cầu ông Q phải cấp dưỡng nuôi hai con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà T và gia đình phải tạo điều kiện Tận lợi cho ông Q được thăm nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Việc nuôi hai con chung không cố định.

Đối với Trương Đình Lệ T, sinh ngày 12/02/2000 đã trưởng thành có khả năng lao động và tự lập được nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày giữa bà và ông Qúi không có tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét đến. Về nợ chung bà T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xét đến. Nếu sau này có tranh chấp sẽ giải quyết thành một vụ án khác.

[6] Về án phí: Bà Bùi Thị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 9, Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xét xử vắng mặt nguyên đơn bà Bùi Thị T và bị đơn ông Trương Đình Q 

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa bà Bùi Thị T và ông Trương Đình Qúi.

2.Về con chung:

2.1. Giao cho Bùi Thị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung tên Trương Đình G, sinh ngày 02/7/2003 và Trương Đình Mộng K, sinh ngày 22/9/2007.

Ông Trương Đình Q không phải cấp dưỡng nuôi hai con chung do bà T không có yêu cầu.

Bà T và gia đình phải tạo điều kiện Tận lợi cho ông Q được thăm nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Việc nuôi hai con chung không cố định.

Đối với Trương Đình Lệ T, sinh ngày 12/02/2000 đã trưởng thành có khả năng lao động và tự lập được nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Bà Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai T số 0010742 ngày 18 tháng 12 năm 2018 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An G. Bà T đã nộp đủ.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Bùi Thị T và ông Trường Đình Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:51/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;