TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2019 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 13/5/2019, tại Toà án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 36/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/4/2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Anh Phan Duy C – Sinh năm: 1988
Địa chỉ: Đường B, phường T, thành phố B, Đắk Lắk – Có mặt
* Bị đơn: Chị Thân Huyền Tuyết T – Sinh năm: 1991
Nơi ĐKHKTT: Đường B, phường T, thành phố B, Đắk Lắk
Nơi ở hiện nay: Đường L, Phường A, Quận G, Tp. Hồ Chí Minh – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn anh Phan Duy C trình bày: Tôi và chị Thân Huyền Tuyết T trước đây là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 26/2018/HNGĐ-PT ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tại bản án này đã tuyên xử:
- Về con chung: Giao con Phan Tuấn K – Sinh ngày 21/10/2016 cho chị Thân Huyền Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con: Không giải quyết do chị T không yêu cầu.
Ngày 19/11/2018 tôi nhận được Quyết định thi hành án số 750/CC-THADS ngày 19/11/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B buộc tôi phải thực hiện bản án số 26/2018/HNGĐ-PT ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, giao con là Phan Tuấn K cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, kể từ khi Tòa án hai cấp xét xử cho đến nay cháu Phan Tuấn K vẫn ở cùng với tôi và được ông bà nội là ông Phan Khánh T và bà Vũ Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng của tôi và gia đình luôn đảm bảo để cháu K được phát triển khỏe mạnh. Bản thân tôi hiện nay có nhà riêng, có công việc và thu nhập ổn định đủ để đảm bảo cho cháu K có được cuộc sống tốt nhất.
Vì vậy, tôi đề nghị Tòa án giải quyết thay đổi quyền nuôi con để tôi được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K cho đến khi đủ 18 tuổi. Không yêu cầu chị Thân Huyền Tuyết T phải cấp dưỡng nuôi con.
* Bị đơn chị Thân Huyền Tuyết T trình bày: Tôi và anh C trước đây là vợ chồng nhưng đã ly hôn, giữa chúng tôi có một con chung là cháu Phan Tuấn K - Sinh ngày: 21/10/2016. Tại thời điểm giải quyết ly hôn, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định giao cháu K cho tôi trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, từ khi ly hôn đến nay anh C và gia đình bên nội luôn tìm cách cách ly tôi và cháu K, không giao cháu K cho tôi chăm sóc, nuôi dưỡng như bản án mà tòa án đã tuyên, việc thăm nom con của tôi cũng luôn bị cản trở. Do đó tôi đã làm đơn yêu cầu thi hành án.
Ngày 19/11/2018 Chi cục thi hành án dân sự thành phố B đã ban hành Quyết định thi hành án số 750/CC-THADS. Ngày 26/12/2018, cơ quan thi hành án đã tổ chức thi hành nhưng anh C lấy lý do mẹ anh C là bà Vũ Thị T không đồng ý giao cháu K cho tôi và hẹn đến ngày 03/01/2019 sẽ giao cháu K cho tôi, tuy nhiên đến nay anh C vẫn không thực hiện.
Hiện nay cháu K vẫn chưa đủ 36 tháng tuổi, từ khi bản án có hiệu lực đến nay anh C và gia đình luôn tìm cách ngăn cản tôi gặp con, chia rẽ tình cảm giữa tôi và cháu K. Hiện nay, bản thân tôi có công việc, có thu nhập ổn định, đảm bảo cho cuộc sống của tôi và cháu K. Vì vậy tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh Phan Duy C mà yêu cầu anh C phải thực hiện việc giao cháu K cho tôi chăm sóc, nuôi dưỡng như bản án phúc thẩm số 26/2018/HNGĐ-PT ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử cũng như phía nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX không chấp nhận đơn khởi kiện của anh Phan Duy C về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Giao cháu Phan Tuấn K – Sinh ngày 21/10/2016 cho chị Thân Huyền Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu K đủ tuổi trưởng thành.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Anh Phan Duy C được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
- Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn anh Phan Duy C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về quan hệ pháp luật: Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự và loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm i khoản 2 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn của nguyên đơn anh Phan Duy C, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tại bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 26/2018/HNGĐ-PT ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định cho chị Thân Huyền Tuyết T được ly hôn anh Phan Duy C và giao con chung là cháu Phan Tuấn K – Sinh ngày 21/10/2016 cho chị Thân Huyền Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến nay, anh Phan Duy C và gia đình anh C là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K.
Mặc dù anh C nêu ý kiến cho rằng, từ khi ly hôn, chị T đã bỏ mặc, không quan tâm, chăm sóc cháu K. Tuy nhiên, qua trình bày của các đương sự, qua kết quả xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, Hội đồng xét xử thấy rằng sau khi bản án 26/2018/HNGĐ-PT ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có hiệu lực pháp luật, phía anh C và gia đình anh C không tự nguyện thi hành án, không tạo điều kiện để chị T được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K nên không có căn cứ để cho rằng chị T vi phạm nghĩa vụ của người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Mặt khác hiện nay cháu K vẫn chưa đủ 36 tháng tuổi và không có cơ sở để xác định chị T không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con nên theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình, chị T là người được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu K.
Do đó Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn của anh Phan Duy C mà cần giao cháu Phan Tuấn K – Sinh ngày: 21/10/2016 cho chị Thân Huyền Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Anh Phan Duy C được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được cản trở.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
- Về án phí: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn anh Phan Duy C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà Phan Duy C đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0011695 ngày 09/01/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Bị đơn chị Thân Huyền Tuyết T không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm i khoản 2 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Duy C về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn.
Tiếp tục giao cháu Phan Tuấn K – Sinh ngày 21/10/2016 cho chị Thân Huyền Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu K đủ tuổi trưởng thành.
Anh Phan Duy C được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét giải quyết.
- Về án phí: Anh Phan Duy C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà Phan Duy C đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0011695 ngày 09/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn chị Thân Huyền Tuyết T không phải chịu án phí.
Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 13/05/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 51/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về