Bản án 51/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 51/2018/HS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tho Xuân, tỉnh Thanh Hóa; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2018;

Đối với bị cáo: Lê Văn H, sinh ngày 06 tháng 01 năm 1959 tại: xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Khu 4, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Lê Thị T (đã chết); có vợ là Lê Thị L và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

- Người bị hại: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1961, Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (đã chết ngày 13/4/2018) - Người đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Hoàng Trọng:

1. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1965, vắng mặt

2. Chị Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1987, vắng mặt

3. Anh Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1989, vắng mặt

4. Chị Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 2002, vắng mặt

Cùng địa chỉ: Thôn Đ, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (Bà V, chị T, chị L ủy quyền cho anh Nguyễn Hoàng S tham gia tố tụng theo văn bản ủy quyền ngày 31/5/2018)

- Người làm chứng:

1. Chị Lê Thị H, sinh năm 1988, nơi cư trú: thôn T, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

2. Anh Trịnh Đức T, sinh năm 1989, nơi cư trú: khu 4, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

3. Chị Trịnh Thị D, sinh năm 1986, nơi cư trú: thôn Đ, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

4. Anh Vũ Đức T, sinh năm 1987, nơi cư trú: khu 4, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 10/4/2018, Lê Văn H đi ra lề đường quốc lộ 47 hướng Tây thuộc địa phận khu 5, thị trấn Lam Sơn để đón xe khách cho con gái là Lê Thị H đi xuống thành phố Thanh Hóa. Khi có một xe ô tô khách giường nằm chạy đến, Lê Văn H vẫy xe khách dừng lại ở lề đường; Do vội chạy sang bên kia đường để đón con gái lúc này đang đứng chờ ở lề đường hướng Đông thuộc khu 4 thị trấn Lam Sơn, nên khi xe khách vừa dừng lại thì Lê Văn H đã không quan sát mà chạy ngang qua đầu xe khách rồi tiếp tục chạy sang bên đường. Ngay lúc này có xe mô tô mang biển kiểm soát 36H9 - 1788 do ông Nguyễn Hoàng T điều khiển di chuyển cùng chiều với xe khách đi đến, vượt lên bên trái xe khách đang dừng, do bất ngờ nên không xử lý kịp đã đâm va vào Lê Văn H. Sau khi va chạm, Lê Văn H bị ngã ra đường, ông T và xe mô tô ngã trượt về phía bên trái đường theo hướng di chuyển khoảng 7 - 10m thì dừng lại. Lê Văn H và ông Nguyễn Hoàng T được đưa đi cấp; Đến ngày 13/4/2018, do chấn thương nặng nên ông Nguyễn Hoàng T đã chết.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm hiện trường; khám phương tiện; khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định pháp y tử thi, xác định nguyên nhân chết đối với ông Nguyễn Hoàng T. Kết quả khám nghiệm hiện trường; khám phương tiện; khám nghiệm tử thi xác định điểm đâm va đầu tiên giữa xe mô tô do ông Trọng điều khiển với Lê Văn H là phần đầu xe phía trước, tay cầm bên phải xe mô tô biển kiểm soát 36H9 - 1788 và vùng hông, mạn sườn trái của Lê Văn H; Vị trí đâm va giữa phương tiện và người đi bộ trên mặt đường là phần đường bên trái hướng di chuyển của phương tiện xe mô tô (hướng thị trấn Lam Sơn đi thành phố Thanh Hóa).

Tại bản kết luận giám định số 826/GĐPY-PC54 ngày 27/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa xác định nguyên nhân chết của ông Nguyễn Hoàng T là: chảy máu lan tỏa màng mềm, phù não.

Diễn biến vụ tai nạn giao thông được camera an ninh của gia đình anh Vũ Đức T ở khu 4 thị trấn L ghi lại toàn bộ; Cơ quan điều tra đã trích xuất dữ liệu camera; Tại biên bản làm việc ngày 22/8/2018, Lê Văn H đã xác định hình ảnh người đi bộ được ghi lại trong camera chính là H.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 36H9 - 1788 cho đại diện hợp pháp của bị hại. Lê Văn H đã tự nguyện bồi thường cho gia đình nạn nhân Nguyễn Hoàng T số tiền là 15.000.000 đồng theo như thỏa thuận giữa hai bên; Đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm về phần bồi thường dân sự và có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can.

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKSTX ngày 17/9/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã nêu và khai nhận: Vào khoảng 15 giờ ngày 10/4/2018 bị cáo H ra khu vực vỉa hè đường Quốc lộ 47 thuộc khu 4, thị trấn Lam Sơn để bắt xe khách cho con gái là Lê Thị H đi thành phố Thanh Hóa. Khi nhìn thấy một xe ô tô khách giường năm chạy đến, Hân vẫy tay đón xe khách dừng lại tại lề đường; sau đó H chạy qua trước đầu xe khách, chạy ngang qua đường Quốc lộ 47 mục đích để sang chổ con gái đang chờ đón và xách đồ giúp con gái. Do vội vàng nên H không quan sát hai bên đường, khi H chạy qua đầu xe khách khoảng 02 mét thì vừa lúc đó xe máy đi cùng chiều xe khách đi đến đâm va vào người H. H bị ngã ra đường bất tỉnh được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Ngọc Lặc; sau đó khi tỉnh lại H mới biết được người đi xe máy đâm va với H là ông Nguyễn Hoàng T ở thôn Đ, thị trấn L. Ông T được đưa đi cấp đến ngày 13/4/2018 thì tử vong do chấn thương nặng; Sau khi ông trọng chết, H và gia đình đã đến thăm hỏi động viên và tự nguyện thỏa thuận bồi thường số tiền là 15.000.000 đồng cho gia đình ông Trọng.

Người đại diện hợp pháp của bị hại là anh Nguyễn Hoàng S vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong hồ sơ vụ án thể hiện: Sau khi tai nạn xảy ra, giữa bị cáo H và đại diện gia đình người bị hại (là anh Nguyễn Hoàng S) đã tự thỏa thuận về phần dân sự, bị cáo H đã tự nguyện bồi thường cho gia đình nạn nhân số tiền là 15.000.000đ. Anh S không có yêu cầu giải quyết về phần dân sự; đề nghị Tòa án miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo H.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; Đề nghị áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ; Miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: không xem xét; Về vật chứng: Tịch thu 01 đĩa CD được trích xuất từ Camera an ninh lưu giữ hình ảnh Lê Văn H do anh Vũ Đức T ở khu 4, thị trấn L, huyện T cung cấp để lưu giữ trong hồ sơ vụ án; Về án phí: buộc bị cáo H phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời trình bày của người đại diện hợp pháp của người bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 10/4/2018, tại đường Quốc lộ 47 thuộc khu 5, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Lê Văn H đã có hành vi qua đường mà không quan sát các xe đang đi tới, chạy ngang qua đầu xe khách đang dừng để sang bên kia đường gây nên va chạm với xe mô tô mang biển kiểm soát 36H9 - 1788 do ông Nguyễn Hoàng T điều khiển di chuyển bên phải đường, cùng chiều với xe khách đi tới vượt lên bên trái xe ô tô khách, do bất ngờ nên ông T không kịp xử lý đã đâm va vào Lê Văn H, hậu quả làm ông Nguyễn Hoàng T bị chấn thương nặng được đưa đi cấp cứu, đến ngày 13/4/2018 thì ông T chết.

Hành vi không tuân thủ quy tắc giao thông đường bộ của Lê Văn H đã vi phạm vào quy định tại Điều 8 "các hành vi bị nghiêm cấm" và khoản 3 Điều 32 của Luật giao thông đường bộ, quy định: “Trường hợp không có đèn tín hiệu, không có vạch kẻ đường, cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ thì người đi bộ phải quan sát các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường”. Lỗi chính gây ra tai nạn là do Lê Văn H chạy băng qua đường không chú ý quan sát các xe đang đi tới, qua đường khi chưa bảo đảm an toàn. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ; mặc dù tai nạn giao thông xảy ra, hậu quả làm chết một người là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo, nhưng vụ tai nạn giao thông xảy ra không những gây nên những mất mát, nỗi đau nặng nề đối với gia đình và người thân của người bị hại, mà còn gây nên tâm lý hoang mang trong nhân dân khi tham gia giao thông, đồng thời gây mất trật tự trị an, làm ảnh hưởng đến sự an toàn xã hội, nhất là trong thời điểm hiện nay, tình hình vi phạm về trật tự an toàn giao thông đang diễn ra phức tạp, có chiều hướng gia tăng, mà nguyên nhân chủ yếu là do người tham gia giao thông không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ các quy định về an toàn giao thông; Trong các vụ tai nạn giao thông xảy ra đã có rất nhiều trường hợp người đi bộ là nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn, điều này cho thấy ý thức chấp hành các quy định về an toàn giao thông của người đi bộ là chưa cao, còn tùy hứng. Do vậy việc đưa bị cáo ra xét xử và lên một mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức chấp hành pháp luật nói chung và ý thức tuân thủ quy tắc về giao thông nói riêng, đồng thời cũng là bài học đối với người dân khi tham gia giao thông.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân: Bị cáo H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Sau khi gây tai nạn bị cáo và gia đình người bị hại đã tự thỏa thuận về phần dân sự, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 15.000.000đ, được đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất và hạng ba, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy: Vụ tai nạn giao thông xảy ra nguyên nhân chính là do bị cáo nhưng cũng có một phần lỗi của nạn nhân do điều khiển xe khi có chướng ngại vật phía trước thiếu quan sát, không kịp thời giảm tốc độ đảm bảo an toàn; Bị cáo Lê Văn H lần đầu phạm tội do lỗi vô ý, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H bằng hình phạt cải tạo không giam giữ, như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo H sau tai nạn bị chấn thương phải đi điều trị nhiều nơi, hiện tại đang bị bệnh cần phải điều trị, nghề nghiệp là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không xác định được mức thu nhập nên miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo và gia đình người bị hại đã tự thỏa thuận về phần dân sự, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 15.000.000đ. Người đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu giải quyết về phần dân sự, nên không xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án: chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 36H9-1788 là tài sản hợp pháp của người bị hại, Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho đại diện hợp pháp của bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật.

- 01 đĩa CD được trích xuất từ Camera an ninh lưu giữ hình ảnh Lê Văn H do anh Vũ Đức T ở khu 4, thị trấn L, huyện T cung cấp là tài liệu làm căn cứ xử lý trách nhiệm đối với bị cáo, hiện được lưu kèm theo hồ sơ vụ án; nên cần tịch thu để lưu giữ trong hồ sơ.

[8] Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; Điều 36; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 12 tháng cải tạo không giam giữ; thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lê Văn H cho Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo Lê Văn H Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét, giải quyết.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu 01 đĩa CD được trích xuất từ Camera an ninh lưu giữ hình ảnh Lê Văn H do anh Vũ Đức T ở khu 4, thị trấn L, huyện T cung cấp để lưu giữ trong hồ sơ vụ án (hiện đang được lưu kèm theo hồ sơ).

4. Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

513
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:51/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;