TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 51/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Hoàng Mai xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 47 /2017/HSST, ngày 08/9/2017. Đối với Bị cáo:
Ph Văn N ; sinh ngày 10 tháng 02 năm 1993
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm H, xã Quỳnh T, thị xã H, tỉnh Nghệ An
Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 10/12
Con ông: PVN; Con bà: HTL;
Vợ: ThTT, sinh năm 1996,có một con 10 ngày tuổi. Anh chị em ruột: Có 3 người, bị cáo là con đầu.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2017.Hiện đang tạm giam. Có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Ph Văn N bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 07/6/2017 tại xóm 14, xã Quỳnh Vh, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, Tổ công tác Công an thị xã Hoàng Mai bắt quả tang, thu giữ trong tay trái của Ph Văn N 01 bao photylen màu trắng bên trong đựng các hạt dạng tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp). Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và đưa Ph Văn N cùng vật chứng về Cơ quan CSĐT Công an thị xã Hoàng Mai điều tra làm rõ.
Quá trình điều tra Ph Văn N khai nhận: Vào khoảng 20 giờ ngày 07/6/2017 N đi xe mô tô BKS 37 L1-55269 đi qua khu vực Xóm H,xã Quỳnh T thì gặp Đ Minh N (sinh năm 1993,trú ở Xóm H, xã Quỳnh T, thị xã H)đang xúc cát, N nhờ N đi lên ngã ba Quỳnh T chở Lư Văn Hg xuống thị xã H vì trước đó Hg có nhờ N lên chở nhưng N đang bận. N đồng ý rồi đi xe lên ngã ba Quỳnh T gặp Hg và chở Hg xuống ngã ba “ LBN” ở xã Quỳnh Vh, thị xã H. Đến nơi, N và Hg gặp Ng Minh Th (sinh năm 1991, trú ở xóm 9 xã Quỳnh T, thị xã H) đang đứng cùng một người thanh niên lạ mặt. Hg xuống xe,đến đưa cho Th 100.000đồng. Th và người thanh niên đi xe theo hướng ra Thanh Hóa, còn Hg và N ngồi uống nước chờ Th. Khoảng 40 phút sau Th và người thanh niên quay lại. N ra lấy xe để đi về thì Th đến nói với N:“Em chạy theo thằng em của anh lấy cái túi nớ với”. Vì Ph Văn N nghiện ma túy nên khi nghe Th nhờ thì hiểu là đi lấy ma túy để về cùng sử dụng nên đồng ý. N điều khiển xe mô tô theo sau nam thanh niên lạ mặt đi đến khu vực xóm 14, xã Quỳnh Vh thì người thanh niên này dừng xe bảo N đứng chờ, khoảng 15 phút sau thì người này quay lại đưa cho N 01 gói Photylen bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và dặn “ Cận thận nha”. Ph Văn N cầm gói Photylen trong tay trái rồi điều khiển xe đi về. Đi được một đoạn thì bị Công an thị xã H phát hiện, bắt quả tang.
Tại bản kết luận giám định số 652/KL- PC54 ngày 10/6/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Ph Văn N gửi tới giám định là ma túy tổng hợp (Methamphetamine). Các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Ph Văn N có trọng lượng là 1,17 (một phẩy mười bảy) gam.
Vật chứng của vụ án:
1,17 gam ma túy tổng hợp sau khi lấy mẫu giám định còn lại 1,06 gam được để trong phong bì bưu điện màu trắng viền xanh đỏ, được niêm phong theo quy định.
01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Ailrblade mang BKS 37L1- 55269 có số khung 4619EZ425438, số máy JF46E7053656 của Ph Văn N.
Toàn bộ vật chứng đã được Cơ quan CSĐT Công an thị xã H chuyển Chi cục thi hành án dân sự quản lý theo quy định.
Trong vụ án này có đối tượng tên Hg là người đã đưa tiền cho Th đi mua ma túy, qua xác minh có đối tượng tên Lư Văn Hg,(sinh năm 1987 trú tại xóm 1, xã Quỳnh T, thị xã H, Nghệ An), nhưng hiện nay Hg vắng mặt khỏi địa phương nên khi nào xác minh, điều tra được sẽ xử lý sau.
Đối với Đ Minh N là người nhờ Ph Văn N chở Lư Văn Hg đi xuống thị xã H, tuy nhiên N không biết việc Hg nhờ chở đi lấy ma túy nên không có cơ sở xử lý.
Quá trình điều tra Ph Văn N khai Ng Minh Th là người đã đi mua ma túy và bảo N đi lấy ma túy về sử dụng, Cơ quan CSĐT đã điều tra xác minh nhưng chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Ng Minh Th.
Đối với người thanh niên đã đưa ma túy cho Ph Văn N, N không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở điều tra làm rõ.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, số 51/VKS-HS, ngày 07 tháng 9 năm 2017, Truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, Nghệ
An để xét xử Ph Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hinh sự.
Tại phiên tòa: Đại diện VKS giữ nguyên nội dung cáo trạng đã nêu, đề nghị: áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46 BLHS. Nghị quyết số 41/2017/QH14. Khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt Ph Văn N từ 15 đến 18 tháng tù; Tiêu hủy số ma túy còn lại đã niêm phong;
Trả lại cho bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu Ailrblade mang BKS 37L1- 55269 có giấy Chứng nhận đăng ký của Ph Văn N.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo:
XÉT THẤY
Lời khai của bị cáo Ph Văn N tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian,địa điểm, đặc điểm vật chứng và quá trình gây án. Đó là:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/6/2017 tại khu vực xóm 14, xã Quỳnh Vh , thị xã H, tỉnh Nghệ An. Công an thị xã H kiểm tra Ph Văn N thu giữ 01 bao photylen màu trắng bên trong đựng các hạt dạng tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp)
Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An có kết luận giám định số 652/KL- PC54 ngày 10/6/2017: Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Ph
Văn N gửi tới giám định là ma túy tổng hợp (Methamphetamine),có trọng lượng là 1,17 (một phẩy mười bảy) gam.
Ph Văn N tàng trữ chất ma tuý nói trên không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,nên bị coi là tàng trữ trái phép.
Căn cứ dấu hiệu hành vi,đặc điểm,số lượng vật chứng, thì Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai truy tố Ph Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 BLHS là phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của Ph Văn N là liều lĩnh, coi thường pháp luật. Hành vi nêu trên thể hiện tính chất vụ án là nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân địa phương, nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo,để răn đe giáo dục người phạm tội nói riêng cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.
Xét về tính chất, nguyên nhân điều kiện phạm tội: Do muốn sử dụng ma túy, nên Ph Văn N đã cất giữ ma túy trong người, mục đích để sử dụng, nhưng hành vi đó là hoàn toàn trái phép, nên bị cáo phải chịu mức độ xử lý theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Bị cáo khai báo rõ ràng thành khẩn; Ăn năn hối cải, thực sự ân hận về hành vi của mình. Ngoài ra còn xem xét chiếu cố để giảm mức án cho bị cáo, để qua đó thể hiện sự khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội là: Bị cáo phạm tội lần đầu,số lượng ma túy ít,làm giảm nhẹ đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội.
Tại phiên toà:Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chiếu cố giảm mức án để sớm được về với gia đình,làm ăn lương thiện, giúp đỡ gia đình,vợ và con còn nhỏ.
Xem xét các tình tiết giảm nhẹ, sự chiếu cố của pháp luật đánh giá tính chất của vụ án,mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi bị cáo thực hiện thì thấy: Hành vi của bị cáo tàng trử ma túy không những xâm phạm đến chế độ quản lý sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước, mà còn làm cầu nối cho người nghiện ngập, tạo điều kiện cho họ càng nghiện ma tuý mạnh hơn; Qua đó đe doạ nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng,sức khoẻ cộng đồng và sự phát triển lành mạnh của nòi giống cũng như ảnh hưỏng đến nhiều mặt của đời sống sinh hoạt gia đình và xã hội.
Thực hiện hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 / 6 / 2017 của Quốc Hội về thi hành BLHS 2015. Căn cứ điểm b,d khoản 1 điều 2 của Nghị quyết, thì tội tàng trữ trái phép chất ma túy của BLHS 2015 có mức hình phạt khởi điểm thấp hơn, được tách ra từ tội ghép của điều 194 của BLHS N 1999, nên được vận dụng tình tiết có lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Để tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã gây ra, cần phải lên án và xử phạt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội,cải tạo giáo dục có thời hạn tại trại giam,để bị cáo có thời gian suy nghĩ cải tạo rèn luyện mình thành người có ích cho xã hội.
Do đó, hình phạt dối với bị cáo như đề nghị của đại diện VKS là có căn cứ, nhưng có xem xét đề nghị của bị cáo về hoàn cảnh vợ con,và sự chiếu cố của pháp luật như đã nêu trên. Nên xử phạt mức án thấp hơn để tạo cơ hội cho bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng, có điều kiện giúp đỡ vợ con.
* Về vật chứng: 01 gói chứa số ma túy còn lại là tang vật phạm tội, được niêm phong, không có giá trị sử dụng nên tiêu hủy;
Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Ailrblade mang BKS 37L1- 55269 có giấy Chứng nhận đăng ký ngày 12/3/2015 ghi chủ xe là Ph Văn N. N khai xe máy này mua mua bằng tiền của gia đình. Bị cáo là con đầu,sống chung cùng gia đình, có giấy phép lái xe, nên bố mẹ cho đứng tên trong đăng ký để sử dụng đi lại làm ăn vận chuyển cho cả gia đình.Nên đề nghị trả lại xe máy cho bị cáo.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Xe máy mua từ năm 2015 là tài sản có giá trị tương đối lớn, đã là phương tiện thường xuyên phục vụ cho gia đình; Bị cáo không dùng xe máy này làm nơi cất dấu hay vận chuyển trái phép chất ma túy. Qua đó cho thấy lời khai của bị cáo phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội ở vùng nông thôn hiện nay. Do đó không cần thiết tịch thu xe máy sung công, mà trả lại xe máy cho bị cáo để sử dụng vào việc chung của gia đình là chính đáng và hợp lý.
Ph Văn N khai: Người có tên là Hg đưa tiền cho Th. Th là người bảo Ph Văn N đi nhận ma túy từ người nam thanh niên bạn của Th. Cơ quan điều tra xác minh được: Lư Văn Hg( sinh năm 1987 trú tại xóm 1,xã Quỳnh T); Ng Minh Th (sinh năm 1991, trú ở xóm 9, xã Quỳnh T). Không có cơ sở xác minh người thanh niên đưa ma túy cho Ph Văn N, vì Ph Văn N hoàn toàn không quen biết.
Nhưng theo lời khai của Ph Văn N thì Hg là đầu mối quan trọng để xác định hành vi của Th liên quan đến Hg và người thanh niên bạn của Th trong vụ án này. Do Hg đang vắng mặt tại địa phương, nên cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành xác minh, nếu có căn cứ xử lý sau đối với Hg,Th và người thanh niên lạ mặt đó là cần thiết.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bởi những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Ph Văn N phạm tội:Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng: Khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46 BLHS N 1999.
Nghị quyết số 41/ 2017/QH14 của Quốc hội. Khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 BLHS N 2015.
Xử phạt: Ph Văn N 12(Mười hai )tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ,tạm giam 08/6/2017.
Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a,b khoản 2, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự .
Tiêu hủy số ma túy còn lại đã niêm phong;
Trả cho bị cáo Ph Văn N chiếc xe mô tô nhãn hiệu Ailrblade mang Biển kiểm soát: 37L1- 55269.
Đặc điểm và số lượng vật chứng có tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Hoàng Mai và Chi cục THADS thị xã Hoàng Mai ngày 08/9 /2017.
Án phí: Bị cáo Ph Văn N phải chịu 200.000đ án phí HSST.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
Bản án 51/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 51/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về