Bản án 508/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 508/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 365/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 590/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 621/2020/QDST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1987

- Bị đơn: ông Trịnh Văn S, sinh năm 1989

Cùng cư trú: tổ 24, ấp PL, xã PH, huyện An Phú, tỉnh An Giang (Bà Đ có đơn xin vắng mặt, ông S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm theo bà Nguyễn Thị Đ trình bày: Hôn nhân giữa bà và ông S là do tự tìm hiểu, yêu thương nhau được hai bên gia đình đồng ý, tổ chức lễ cưới vào năm 2009. Sau khi kết hôn ông bà sống tại ấp PL một thời gian nhưng do kinh tế khó khăn nên đi Bình Dương làm công nhân và mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đó. Nguyên nhân là do ông S không làm lo làm ăn, lao vào cờ bạc, bà Đ còn phát hiện ông có tình cảm vợ người phụ nữ khác. Nhiều lần khuyên ngăn không được nên bà ly thân với ông từ năm 2017 đến nay. Gia đình hai bên đã hàn gắn nhưng bà nhận thấy không thể quay về chung sống được nữa nên quyết định ly hôn.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trịnh Vũ K, sinh ngày 07/9/2010 và Trịnh Ngọc Th, sinh ngày 16/8/2014, hiện do bà Đ và gia đình chăm sóc. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ do đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Trịnh Văn S theo quy định nhưng ông S không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà Đ - ông S để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được:

Tại biên bản xác minh ngày 12/11/2020 được bà Nguyễn Thị V mẹ ruột của bà Đ cho biết: Bà Đ - ông S đi làm nên quen biết, yêu thương nhau hai bên gia đình đồng ý nên tổ chức lễ cưới vào năm 2009. Sau khi kết hôn thì đi Bình Dương làm công nhân do cuộc sống ở quê quá khó khăn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc bà Đ xin ly hôn là do ông S phát sinh tình cảm với người phụ nữ khác, bà Đ khuyên ngăn không được nên quyết định ly hôn.

Tại phiên tòa, bà Đ vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Riêng ông S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông bà theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ... là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Đ khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trịnh Văn S. Đồng thời, ông S hiện cư trú trên địa bàn huyện An Phú. Do vậy, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình về ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Phú.

Tại phiên toà, bà Đ có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông S vắng mặt không có lý do mặc dù đã triệu tập hợp lệ. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông bà.

[2 ] Về nội dung:

Quan hệ hôn nhân giữa bà Đ và ông S xác lập trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thị xã T ngày 13/5/2009 nên là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

[2.1] Xét yêu cầu của bà Đ xin ly hôn với ông S thì thấy: Cả hai đã không chung sống với nhau từ đầu năm 2017 đến nay, bà Đ cho biết nhiều lần hai vợ chồng xảy ra tranh cãi được hai bên gia đình hàn gắn nhưng ông bà vẫn không thể tiếp tục đời sống hôn nhân do ông S không đồng ý chung sống lại. Quá trình giải quyết vụ án, ông S đã được triệu tập để tham gia các phiên hoà giải nhưng vắng mặt, điều này cho thấy ông không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Do đó, có căn cứ cho thấy mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng là trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục, các bên đã không thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ vợ chồng với nhau nên yêu cầu ly hôn của bà S là có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà Đ trình bày có Trịnh Vũ K, sinh ngày 07/9/2010 và Trịnh Ngọc Th, sinh ngày 16/8/2014, hiện con chung do bà Đ và gia đình nuôi dạy.

Xét yêu cầu về con chung sau khi ly hôn của bà Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy: Từ khi ly thân đến nay cháu K và cháu Th được bà Đ và gia đình chăm sóc, tình cảm mẹ con gắn bó, việc thay đổi chỗ ở, hoàn cảnh sống đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sự phát triển của các cháu sau này. Cháu K có nguyện vọng được tiếp tục sống với bà Đ, cháu Th là con gái đang tuổi phát triển cần sự chăm sóc và dạy bảo từ mẹ. Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục giao cháu K và cháu Th cho bà Đ chăm sóc, nuôi dưỡng.

Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên do bà Đ không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà.

Bà Đ cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà Đ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bà Đ là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 9, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Đ

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Đ được ly hôn với ông Trịnh Văn S.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 67 ngày 13/05/2009 của Ủy ban nhân dân xã C, thị xã T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Đ được tiếp tục nuôi cháu Trịnh Vũ K, sinh ngày 07/9/2010 và Trịnh Ngọc Th, sinh ngày 16/8/2014, công nhận tự nguyện của bà Đ không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Bà Đ cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004810 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú (bà Đ nộp đủ).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 508/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:508/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;