Bản án 504/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 504/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚYTỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 476/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 504/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Hồng C (tên gọi khác: Nhóc); Sinh năm 1990, tại Đ. Nơi cư trú: 231/2A, khu phố 8A, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên Chúa. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 09/12. Họ tên cha: Nguyễn Văn Long, sinh năm 1960 (còn sống). Họ tên mẹ: Phạm Thị Ánh Tuyết, sinh năm 1962 (còn sống). Gia đình có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất. Bị cáo chưa có chồng, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 21/9/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. (Bản án số 571/2016/HSST)

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 11/4/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số

466 ngày 20/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Thị Thu H (tên gọi khác: không); Sinh năm 1990, tại Đ. Nơi cư trú: 155/5, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên Chúa. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 09/12. Họ tên cha: Phạm Văn Tiến, sinh năm 1956 (còn sống). Họ tên mẹ: Quách Thị TH, sinh năm 1957 (còn sống). Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ nhất. Bị cáo chưa có chồng, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 31/5/2012, bị Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa ra Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Đồng Nai, thời gian chấp hành 12 tháng (Quyết định số 2626/QĐ-UBND).

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 11/4/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 467 ngày 20/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Trần Thị Mộng N, sinh năm: 1994. Địa chỉ: ấp Phú Thiện, xã H, huyện X, tỉnh B. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Đăng D, sinh năm 1990. Địa chỉ: 108/20/6, khu phố 3, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

2. Anh: Nguyễn Khắc L, sinh năm: 1990. Địa chỉ: 22/12C, khu phố 2, phường H, thành phố B, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị Hồng C:

Nguyễn Thị Hồng C là người sử dụng trái phép chất ma túy. Từ đầu tháng 02/2020 đến ngày 09/4/2020, C đã 02 lần đến khu vực công viên 30/4 thuộc phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mua của người tên Bi (Chưa rõ lai lịch) 02 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá từ 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) đến 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng)/01 gói. Sau đó, C lấy một phần ma túy sử dụng, phần còn lại chia thành nhiều gói nhỏ để bán cho người nghiện.

Cách thức: Các đối tượng cần mua ma túy thì điện thoại cho C theo số 0901266072 hoặc 0901678783, C hẹn đến nhà C tại khu phố 8A, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa để thực hiện hành vi mua bán ma túy. Cụ thể:

- Vào ngày không rõ đầu tháng 3/2020 và ngày không rõ giữa tháng 3/2020, tại địa điểm trên, C đã bán cho Phạm Thị Thu H, sinh năm 1990, ngụ tại 155/5 khu phố 2, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 02 lần mỗi lần 01 gói ma túy tổng hợp (Hàng đá) với giá từ 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) đến 1.000.000 đồng (Một triệu đồng)/gói.

- Vào ngày 28/3/2020 và ngày 05/4/2020, tại địa điểm trên, C đã bán cho Phạm Đăng D, sinh năm 1990, ngụ tại 108/20/6 khu phố 3, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ 02 lần 02 gói ma túy tổng hợp (Hàng đá) với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)/gói.

- Ngày 24/3/2020, tại địa điểm trên, C đã bán cho Nguyễn Thành C1, sinh năm 1994, ngụ tại 122D/6 khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đ 01 lần 01 gói ma túy tổng hợp (Hàng đá) với giá 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng), C1 trả 70.000 đồng (Bảy mươi nghìn đồng) và còn nợ 30.000 đồng (Ba mươi nghìn đồng).

- Ngày 10/4/2020, Phạm Thị Thu H gọi điện thoại cho C hỏi mua 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) và xin trả tiền sau, C đồng ý. Khoảng 12 giờ ngày 11/4/2020, H đến nhà C tại địa chỉ nêu trên, C bỏ 01 gói ma túy vào trong vỏ hộp gói thuốc lá Jet, sau đó C nhờ Hoàng Vũ Thanh Tuyền đưa cho H.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa khám xét nhà của Nguyễn Thị Hồng C tại địa chỉ nêu trên, thu giữ 01 gói ma túy tổng hợp của C.

- Hành vi phạm tội của Phạm Thị Thu H:

Lúc 12 giờ 50 phút ngày 11/4/2020, sau khi mua ma túy của C, Phạm Thị Thu H đang cất giấu 01 gói ma túy tổng hợp (Hàng đá) trong gói thuốc Jet và bỏ trong túi bên trái áo khoác H đang mặc rồi điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 86B6-058.32 đi đến trước nhà số 8/54 Nguyễn Ái Quốc, phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Đồng Nai kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

- Thu giữ của Nguyễn Thị Hồng C:

+ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Thị Hồng C và hình dấu của Công an phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa

+ 01 cân điện tử hiệu Amput sử dụng vào việc phạm tội.

+ 01 điện thoại di động hiệu Huawei, số thuê bao 0901678873, số IMEI: 353879221365140 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0901266072, số IMEI: 357342088476085, sử dụng vào việc phạm tội.

+ 01 chứng minh nhân dân của Nguyễn Thị Hồng c.

- Thu giữ của Phạm Thị Thu H:

+ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Phạm Thị Thu H và hình dấu của Công an phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO có 02 số thuê bao là 0358542825 và 0937056013, sử dụng vào việc phạm tội.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda Vison và chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 86B6-058.32 thuộc sở hữu của chị Nguyễn Trần Thị Mộng N. Chị Ngọc cho H mượn xe và không biết việc H tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả xe trên cho chị Ngọc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Hồng C, Phạm Thị Thu H khai nhận hành vi phạm tội như trên.

- Tại Bản kết luận giám định số 713/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận khối lượng ma túy thu giữ của Nguyễn Thị Hồng C: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 12,7056 gam loại: Methamphetamine.” (Bút lục số 19A).

- Tại Bản kết luận giám định số 712/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận khối lượng ma túy thu giữ của Phạm Thị Thu H: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 2,2318gam loại: Methamphetamine.” (Bút lục số 19).

Bản cáo trạng số: 485/CT-VKSBH-HS ngày 24 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); truy tố bị cáo Phạm Thị Thu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b, i khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng C từ 08 năm - 09 năm tù.

Áp dụng điểm C khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu H từ 02 năm - 02 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã mô tả; không có ý kiến đối với Bản kết luận giám định.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Quá trình điều tra các bị cáo không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng đầu tháng 3/2020 đến ngày 11/4/2020, tại nhà số 231/2A, khu phố 8A, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, Nguyễn Thị Hồng C đã bán cho Nguyễn Thành C1, Phạm Đăng D, Phạm Thị Thu H 06 lần 06 gói ma túy tổng hợp với giá từ 100.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) đến 1.000.000 đồng (Một triệu đồng)/gói. Còn lại 12,7056gam ma túy, loại: Methamphetamine (theo Bản kết luận giám định số 713/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai), C đang cất giữ chưa kịp bán, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai khám xét nơi ở, phát hiện và thu giữ.

Lúc 12 giờ 50 phút ngày 11/4/2020, tại trước nhà số 8/54 Nguyễn Ái Quốc, phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Phạm Thị Thu H có hành vi tàng trữ trái phép 2,2318 gam ma túy, loại: Methamphetamine (theo Bản kết luận giám định số 712/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai) thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Nai kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Như vậy, bị cáo Nguyễn Thị Hồng C đã có hành vi mua bán chất Methamphetamine, bị cáo Phạm Thị Thu H đã có hành vi tàng trữ Methamphetamine, đây là chất ma túy nằm trong danh mục các chất cấm theo quy định của Chính phủ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Hồng C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi của bị cáo Phạm Thị Thu H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố và viện dẫn.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi cuộc sống xã hội. Các bị cáo có nhân thân xấu (bị cáo C bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - theo bản án số 571/2016/HSST ngày 21/9/2016; bị cáo H bị Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa ra Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Đồng Nai, thời gian chấp hành 12 tháng - theo Quyết định số 2626/QĐ-UBND ngày 31/5/2012) nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân; do đó, cần có một mức án tương xứng với mức độ, tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo mới giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với Phạm Đăng D và Nguyễn Thành C1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Biên Hòa đã xử phạt hành chính là đúng quy định.

Đối với người tên Bi (Không rõ lai lịch) đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thị Hồng C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau là đúng quy định.

Đối với Hoàng Vũ Thanh T (Tuyết) được Nguyễn Thị Hồng C nhờ cầm gói thuốc lá Jet bên trong có ma túy đưa cho Phạm Thị Thu H vào ngày 11/4/2020. C và T khai T không biết trong gói thuốc lá Jet có ma túy. Kết quả điều tra chưa đủ cơ sở chứng minh T đồng phạm với C nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T là đúng.

[3] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO có 02 số thuê bao là 0358542825 và 0937056013 của Phạm Thị Thu H sử dụng vào việc phạm tội.

+ 01 điện thoại di động hiệu Huawei, số thuê bao 0901678873, số IMEI: 353879221365140; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0901266072, số IMEI: 357342088476085 và 01 cân điện tử hiệu Amput của Nguyễn Thị Hồng C sử dụng vào việc phạm tội.

- Trả lại cho các bị cáo các giấy tờ không liên quan đến vụ án bao gồm:

+ 01 giấy phép lái xe cho Phạm Thị Thu H;

+ 01 chứng minh nhân dân cho Nguyễn Thị Hồng c.

[4] về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, các bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: về tội danh và mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với các bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của các bị cáo sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Hồng C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b, i Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt Nguyễn Thị Hồng C 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 11-4-2020.

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Thu H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm C Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt Phạm Thị Thu H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 11-4-2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO có 02 số thuê bao là 0358542825 và 0937056013 của Phạm Thị Thu H.

+ 01 điện thoại di động hiệu Huawei, số thuê bao 0901678873, số IMEI: 353879221365140; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0901266072, số IMEI: 357342088476085 và 01 cân điện tử hiệu Amput của Nguyễn Thị Hồng C.

- Trả lại cho các bị cáo các giấy tờ không liên quan đến vụ án, cụ thể:

+ Trả lại cho Phạm Thị Thu H01 giấy phép lái xe;

+ Trả lại cho Nguyễn Thị Hồng C 01 chứng minh nhân dân.

(Tất cả các vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Thị Hồng C, Phạm Thị Thu H mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí.

4. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 504/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:504/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;