TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 50/2023/LĐ-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 94/2023/TLST-LĐ ngày 19 tháng 6 năm 2023 về việc “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2023/QĐXXST-LĐ ngày 11 tháng 8 năm 2023, thông báo về việc thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 664/2023/TB-TA ngày 12/8/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 108/2023/QĐST-LĐ ngày 06 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Phước T, sinh năm 1974;
Nơi đăng ký HKTT: ấp H, xã Đ, huyện T, An Giang Địa chỉ cư trú: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Công ty TNHH S;
Địa chỉ: Số nhà F, đường C, ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Phúc T1 - Chức vụ: Giám đốc.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ; Địa chỉ: Số B đường H, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Minh T2 - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Phương H - Phó Chánh Văn phòng.
Địa chỉ: Số nhà B, đường H, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Tất cả các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, đơn bổ sung, thay đổi, rút một phần yêu cầu khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Phước T trình bày:
Ông T vào làm việc cho Công ty TNHH S (từ đây viết tắt là công ty) từ tháng 03/2021. Hợp đồng lao động hai bên ký kết gần đây nhất là tháng 06/2021 thuộc loại hợp đồng có thời hạn 36 tháng, công việc là tổ cắt, mức lương đóng BHXH trước khi nghỉ việc: 4.965.870 đồng/tháng. Trong thời gian làm việc tại công ty, ông luôn hoàn thành nhiệm vụ. Ông không gửi đơn xin nghỉ việc nhưng ngày 05/11/2022, công ty lại ban hành Quyết định số 172/2022/QĐTV-AFM cho ông thôi việc kể từ ngày 05/11/2022 và lý do mà công ty nêu ra là ông có đơn xin nghỉ việc. Sau khi nhận Quyết định giải quyết cho thôi việc thì ông không còn làm việc cho công ty B từ ngày 05/11/2022. Khi kiểm tra lại thông tin về bảo hiểm xã hội thì ông mới biết từ tháng 06/2021 đến khi ông nghỉ việc, công ty không đóng tiền bảo hiểm xã hội cho ông.
Ông đã nhiều lần liên hệ lãnh đạo của công ty để yêu cầu công ty đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội cho ông nhưng công ty H1 hết lần này đến lần khác và cho đến nay thì công ty đóng cửa, không còn hoạt động, không giải quyết cho ông.
Do vậy ông khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Tuyên bố Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với ông (Quyết định về việc giải quyết cho thôi việc số 172/2022/QĐTV-AFM ngày 05/11/2022) là trái pháp luật. Buộc Công ty phải:
- Trả tiền lương trong những ngày ông không được làm việc, tính từ ngày 05/11/2022 đến ngày Toà án xét xử, với mức lương là 4.965.870 đồng/tháng.
- Bồi thường cho ông khoản tiền bằng 02 tháng lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 4.965.870 đồng/tháng x 02 tháng = 9.931.740 đồng.
- Truy đóng BHYT, BHXH, BHTN cho ông trong những ngày ông không được làm việc từ ngày 05/11/2022 đến ngày Toà án xét xử.
2. Buộc Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022 và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm cho ông theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên ngày 15/8/2023, ông thay đổi và rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Ông rút phần các yêu cầu tuyên bố công ty chấm dứt hợp đồng lao động với ông trái pháp luật; buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương, truy đóng BHYT, BHXH, BHTN cho ông những ngày ông không được làm việc. Khi cần thì ông sẽ khởi kiện lại sau bằng vụ kiện khác. Trong vụ án này, ông chỉ còn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022 và tiền lãi chậm đóng theo quy định vào quỹ bảo hiểm xã hội do cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai quản lý. Đồng thời công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông theo quy định của pháp luật.
* Bị đơn là Công ty TNHH S đã được tống đạt hợp lệ các văn bản theo trình tự tố tụng nhưng không tham gia tố tụng và không cung cấp tài liệu, văn bản trình bày ý kiến về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án:
* Người có quyền người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai do bà Đinh Thị Phương H đại diện bản trình bày:
Ông Nguyễn Phước T, sinh ngày 01/01/1974, mã số BHXH 892296x583, có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHTNLĐ-BNN) tại Công ty TNHH S từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022. Công ty TNHH S đã đóng BHYT, BHTN, BHTNLĐ – BNN cho ông T đến tháng 10/2022 nhưng chưa đóng BHXH.
Để xác nhận thời gian đóng BHXH (chốt sổ BHXH) cho ông T, Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông T từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022 và tiền lãi chậm đóng theo quy định vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh quản lý.
* Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định tại các Điều: 239, 243, 248, 249, 250, 251, 253, 254, 256, 260 và Điều 263 của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại các Điều 70, 71, 72, 86, 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình và không đến tham gia tố tụng mặc dù đã được thông báo, triệu tập nhiều lần nên việc Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn để giải quyết dứt điểm vụ án là phù hợp.
Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn là ông T rút một phần yêu cầu khởi kiện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu này. Yêu cầu còn lại của ông T về việc buộc Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông T từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022 và tiền lãi chậm đóng theo quy định vào quỹ bảo hiểm xã hội do cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai quản lý. Đồng thời công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông T theo quy định của pháp luật là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của ông T và buộc bị đơn là Công ty TNHH S phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Căn cứ vào quan hệ lao động và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.
Bị đơn là Công ty TNHH S có trụ sở chính tại ấp S Đường C - C, ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai nên căn cứ điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự theo quy định tại sự khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do tất cả các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa nên theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự thì quyền kháng cáo của các đương sự được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
[3] Về nội dung tranh chấp:
[3.1] Công ty TNHH S là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo cụ thể yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo cũng như các tài liệu, chứng cứ khác mà Tòa án đã thu thập được. Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn không tham gia giải quyết vụ án, cũng không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.
3.2 Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
Nội dung khởi kiện và yêu cầu của ông T như đã nêu ở trên cùng các tài liệu, chứng cứ mà ông T giao nộp gồm: Phiếu Công ty TNHH S trả lương cho ông T3 tháng 7,10/ 2022; Quyết định số 172/2022/QĐTV-AFM của Công ty TNHH S giải quyết cho ông T thôi việc từ ngày 05/11/2022 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ cho Công ty TNHH S nhưng công ty không có ý kiến phản đối. Đồng thời trình bày của ông T phù hợp với ý kiến của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ. Như vậy giữa ông T và Công ty TNHH S có quan hệ lao động và công ty phải có nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm xã hội và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông T theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội.
Theo xác nhận của bảo hiểm xã hội tỉnh Đ thì từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022, Công ty TNHH S chưa đóng tiền bảo hiểm xã hội cho ông T. Như vậy việc ông T yêu cầu công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông T từ tháng 6/2021 đến tháng 10/2022 và tiền lãi chậm đóng theo quy định vào Quỹ BHXH, đồng thời công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông T là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 5 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hộikhoản 3 Điều 47 của Bộ luật Lao động nên yêu cầu khởi kiện của ông T là có cơ sở chấp nhận.
[3.3]. Ông T rút phần yêu cầu khởi kiện gồm: tuyên bố Công ty TNHH S chấm dứt hợp đồng lao động với ông T trái pháp luật; buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho ông những ngày ông không được làm việc; truy đóng BHYT, BHXH, BHTN cho ông trong những ngày ông không được làm việc từ ngày 05/11/2022 đến ngày Toà án xét xử. Việc ông T rút phần yêu cầu khởi kiện này là tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận và đình chỉ giải quyết. Ông T có quyền khởi kiện lại những yêu cầu này bằng vụ án khác.
[4] Về án phí lao động sơ thẩm: Yêu cầu của ông T được chấp nhận nên Công ty TNHH S phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
[5] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm d khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91; Điều 147; Điều 217; Điều 218; khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235; Điều 238; Điều 244; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 3 Điều 47; Điều 186 của Bộ luật Lao động;
- Điều 18; khoản 1 Điều 19; khoản 2 và khoản 5 Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội;
- Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phước T đối với Công ty TNHH S về việc tuyên bố Công ty TNHH S chấm dứt hợp đồng lao động với ông T trái pháp luật; buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương, truy đóng BHYT, BHXH, BHTN cho ông T những ngày ông T không được làm việc.
Ông Nguyễn Phước T có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại các yêu cầu trên theo quy định của pháp luật.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phước T đối với Công ty TNHH S về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.
2.1 Buộc Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông Nguyễn Phước T từ tháng 06/2021 đến tháng 10/2022 và tiền lãi chậm đóng theo quy định vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh Đ quản lý.
2.2 Buộc Công ty TNHH S thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông Nguyễn Phước T theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH S phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
5. Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 50/2023/LĐ-ST về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội
Số hiệu: | 50/2023/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 25/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về