Bản án 50/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 50/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 04 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 635/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 631/2020/QĐXX-ST ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1986; nơi cư trú: ấp K, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Tuyết M, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp K, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng H trình bày: Ông và bà Trần Thị Tuyết M tự nguyện chung sống với nhau năm 2009, hôn nhân do mia mối, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Trong quá trình chung sống, ông và bà M sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, không có tiếng nói chung. Ông và bà M ly thân từ năm 2014 đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay ông Nguyễn Hoàng H xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu ly hôn với bà Trần Thị Tuyết M .

Về con chung: Ông và bà M có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 22/4/2008; Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 20/5/2013. Hiện hai con chung đang do ông H chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông H yêu cầu được chăm sóc nuôi dưỡng cháu T, cháu H1; không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Trần Thị Tuyết M đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà M vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như đã trình bày.

Bị đơn, bà Trần Thị Tuyết M vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Hoàng H với bà Trần Thị Tuyết M.

Ông Nguyễn Hoàng H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 22/4/2008; Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 20/5/2013; bà Trần Thị Tuyết M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bà Trần Thị Tuyết M đang cư trú tại xã K, huyện C, tỉnh An Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]. Về quan hệ pháp luật: Ông Nguyễn Hoàng H khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Trần Thị Tuyết M, yêu cầu được nuôi con chung. Đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

[3]. Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng xác định nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng H, bị đơn bà Trần Thị Tuyết M .

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Trần Thị Tuyết M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa hôm nay. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà M.

* Về nội dung:

[4].Về quan hệ hôn nhân: Ông H và bà M tự nguyện sống chung với nhau năm 2009, đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 238, quyển số 02 ngày 25/6/2009 do Ủy ban nhân dân xã K, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông H, bà M. Vì vậy, hôn nhân giữa ông H và bà M là hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, ông và bà M bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, bà M không quan tâm đến vợ con, ông và bà M không còn sống chung từ năm 2014 đến nay, bà M không tới lui hàn gắn tình cảm và chăm sóc con chung; ông H nộp đơn khởi kiện ly hôn Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà M không đến Tòa án để làm việc, thể hiện bà M không mong muốn hàn gắn tình cảm với ông H.

Căn cứ lời khai của nguyên đơn, chứng cứ trong hồ sơ, thể hiện giữa ông H, bà M không còn tình cảm, ông, bà đã ly thân trong thời gian dài, không liên lạc với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa, ông H xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của ông H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.

[5]. Về quan hệ con chung: Ông và bà M có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 22/4/2008; Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 20/5/2013. Hiện cháu T, cháu H1 do ông H chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện nay cháu T, cháu H1 đã sống ổn định với ông H. Ông H yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung, bà M cũng không có ý kiến phản đối. Biên bản ghi nhận ý kiến của con chung chưa thành niên cháu T, cháu H1 có nguyện vọng sống với ông H, tại biên bản xác minh ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thì cháu T, cháu H1 sống với ông H phát triển tốt về tinh thần và thể chất, nhà ông H gần trường học, trạm y tế, đảm bảo về việc học hành cũng như chăm sóc sức khỏe cho cháu T, cháu H1. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của ông H là được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T, cháu H1.

[6]. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[7]. Về tài sản chung: Ông H không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết [8]. Về nợ chung: Ông H không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[9]. Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về quan điểm giải quyết án.

[10]. Về án phí: Ông Nguyễn Hoàng H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điếm a khoản 1 Điều 39, Điều 68, khoản 4 Điều 147; Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự - Căn cứ Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình:

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của ông Nguyễn Hoàng H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 238, quyển số 1 ngày 25 tháng 6 năm 2009 do Ủy ban nhân dân xã Kiến An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp cho ông H, bà M không còn giá trị pháp lý.

Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Hoàng H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 22/4/2008; Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 20/5/2013.

Bà Trần Thị Tuyết M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Hoàng H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Trần Thị Tuyết M trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Ông Nguyễn Hoàng H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0008860 ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông H đã nộp đủ.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bà M vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 50/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:50/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;