Bản án 50/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc A; sinh năm: 1992; tại: Lâm Đồng; trú tại: thôn N x, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Trần Thị T, sinh năm 1969; tiền án: không; tiền sự: Ngày 31/5/2017 bị Công an huyện Đơn Dương xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; nhân thân: Tại bản án số 130/2009/HSPT ngày 28/10/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, xử phạt 18 tháng tù về tội: “Cướp tài sản”; bị bắt tạm giam từ ngày 05/4/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Văn B, sinh năm 1968

Trú tại: thôn N x, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 05/4/2019 bị can Nguyễn Ngọc A mua ma túy loại Heroin từ một người đàn ông tên H hiện chưa rõ lai lịch với số tiền là 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) để sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Số ma túy có khổi lượng 0,4126 (không phẩy bốn một hai sáu gam) loại Heroin.

Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa chất cục bột màu trằng nghi là ma túy loại Heroin được niêm phong để tiến hành giám định theo quy định; 01 điện thoại đi động màu đỏ đen hiệu Nokia X1 đã qua sử dụng (không kiểm tra chất lượng bên trong).

01 xe máy màu sơn xanh đen, BKS: 98M1 – 4312 đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên Ngọc A mượn của bố dượng tên là Bùi Văn B, sinh năm 1968, HKTT: thôn N x, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Ông B không biết sự việc Nguyễn Ngọc A sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi mua ma túy. Cơ quan CSĐT đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại chiếc xe máy trên cho ông Bùi Văn B theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 794/PC09 ngày 09/4/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận chất cục dạng bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy bạc được niêm phong thu giữ của Nguyễn Ngọc A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4126g (không phẩy bốn một hai sáu gam), loại Heroin (Heroin là chất ma túy nằm trong danh mục 1, STT: 09, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ).

Qua điều tra đối tượng khai nhận, vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05 tháng 4 năm 2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Ngọc A điều khiển xe máy biển kiểm soát 98M1 – 4312 nhãn hiệu Prime một mình đi từ nhà tại Thôn N x, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng qua thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng để mua ma túy. Khi đến đầu cầu Thác voi thuộc thị trấn N, huyện L thì Ngọc A gặp một người đàn ông tên H mà Ngọc A quen từ trước (Ngọc A không rõ nhân thân, lai lịch của H). Trước đây Ngọc A đã nhờ H đi mua ma túy về sử dụng nên khi gặp, Ngọc A đã đưa cho H số tiền là 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) để nhờ H đi mua ma túy hộ. H đồng ý và nói Ngọc A đi cùng mình đến khu vực chợ T, thị trấn N. Khi cả hai đi đến cổng chợ T thì H bảo Ngọc A đứng đợi ở ngoài đường còn H một mình đi vào trong chợ. Khoảng 15 phút sau, H quay lại đưa cho Ngọc A 01 (một) gói giấy bạc bên trong có chưa chất ma túy. Ngọc A cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong người rồi đi đến đoạn đường vắng thuộc tổ dân phố Đ x, thị trấn N lấy số ma túy vừa mua được ra để sử dụng thì bị lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong, thu giữ toàn bộ số ma túy và đưa Ngọc A về Công an thị trấn N để làm việc. Tại cơ quan Công an Nguyễn Ngọc A đã khai nhận toàn bộ hành vi như trên của mình.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 11/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử bị can Nguyễn Ngọc A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, không khiếu nại hay thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc A về tội:Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1 màu đỏ đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong. Đồng thời, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc A đã khai nhận: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05 tháng 4 năm 2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Ngọc A điều khiển xe máy biển kiểm soát 98M1 – 4312 nhãn hiệu Prime một mình đi từ nhà tại thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng qua thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng để mua ma túy. Khi đến đầu cầu Thác voi thuộc thị trấn N, huyện L thì Ngọc A gặp một người đàn ông tên H mà Ngọc A quen từ trước ( Ngọc A không rõ nhân thân, lai lịch của H). Trước đây Ngọc A đã nhờ H đi mua ma túy về sử dụng nên khi gặp, Ngọc A đã đưa cho H số tiền là 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) để nhờ H đi mua ma túy hộ. H đồng ý và nói Ngọc A đi cùng mình đến khu vực chợ T, thị trấn N. Khi cả hai đi đến cổng chợ T thì H bảo Ngọc A đứng đợi ở ngoài đường còn H một mình đi vào trong chợ. Khoảng 15 phút sau, H quay lại đưa cho Ngọc A 01 (một) gói giấy bạc bên trong có chưa chất ma túy. Ngọc A cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong người rồi đi đến đoạn đường vắng thuộc tổ dân phố Đx, thị trấn N định lấy số ma túy vừa mua được ra để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật là ma túy loại Heroin có khổi lượng tổng cộng là 0,4126g (không phẩy bốn một hai sáu gam)

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tang vật thu giữ và những tài liệu, chứng cứ khác được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Ngọc A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, đồng thời còn tác động xấu đến tình hình trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương.

Ma túy là loại độc dược, gây ra nhiều tác hại đối với người sử dụng và còn là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác, đồng thời cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác trong xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, về hình phạt đối với loại tội phạm này cũng rất nghiêm khắc. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đã không nghĩ đến tác hại của loại độc dược này đối với chính bản thân mình mà mua ma túy cất giữ để sử dụng thì đã bị phát hiện bắt quả tang.

Xét vai trò của bị cáo trong vụ án, bị cáo A là người trực tiếp điều khiển xe máy từ thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng qua thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng mua ma túy để sử dụng, bị cáo là người chủ động cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong người rồi đi đến đoạn đường vắng thuộc tổ dân phố Đ x, thị trấn N lấy số ma túy vừa mua được ra để sử dụng thì bị lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà mình đã thực hiện.

Xét nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân không tốt, cụ thể năm 2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 18 tháng tù về tội cướp tài sản, khi chấp hành án xong được tái hòa nhập cộng đồng nhưng bị cáo lại bị Công an huyện Đơn Dương xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Điều này chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật, không chịu tu dưỡng bản thân để trở thành người lương thiện. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, sống biết tuân thủ pháp luật và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đồng thời cũng cần xem xét đến hoàn cảnh gia đình hiện nay của bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Đối với người đàn ông tên gọi “H” là người mà bị cáo nhờ mua ma túy, Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên tiếp tục điều tra xử lý sau.

[4] Đối với chiếc xe mô tô màu sơn xanh đen, BKS: 98M1 – 4312 đã qua sử dụng là của ông Bùi Văn B là bố dượng của bị cáo, ông B cho bị cáo mượn, việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, ông B không biết. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại chiếc xe máy trên cho ông Bùi Văn B và theo hồ sơ thì ông B không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính ra, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Xét thấy, bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án do Cơ quan điều tra thu giữ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự là hai phong bì niêm phong ghi số 794/2019/PC09 của phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1.

Qua xem xét Hội đồng xét xử nhận thấy: đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1 là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với hai phong bì niêm phong ghi số 794/2019/PC09 của phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng đựng Heroine Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc A 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2019.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy hai phong bì niêm phong ghi số 794/2019/PC09 của phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng đựng Heroin.

+ Trả cho bị cáo Nguyễn Ngọc A 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1 màu đỏ đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong;

(Tất cả có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 12/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà).

3.Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/8/2019); riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn Bình vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;