TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 50/2019/HS-PT NGÀY 10/05/2019 VỀ TỘI GÁ BẠC
Ngày 10 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 72/2019/TLPT-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Đình H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HSST ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Bị cáo kháng cáo: Phạm Đình H, sinh năm 1969 tại xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; con ông Phạm Đình C và con bà Trần Thị M, có vợ và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/10/2018 đến ngày 29/10/2018. Bị cáo tại ngoại, hiện có mặt tại phiên tòa. Ngoài ra còn có 09 bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị.
Người làm chứng: Người làm chứng: Anh Phạm Đình D - sinh năm 1972
Địa chỉ: P, H, B, Hải Dương. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 26/10/2018, Phạm Đình H đang ở nhà tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương thì có Lê Đình Q, Đặng Hữu Th1, Đoàn Trọng Th, Lê Đình L đến chơi và rủ nhau đánh bạc, H đồng ý và đi mua 02 bộ bài tú lơ khơ về để tại bàn uống nước. Sau đó L cầm bộ bài rồi cùng với Q, Th1, Th đi lên tầng 2 nhà Huấn cùng nhau đánh bạc trái phép dưới hình thức "đánh phỏm" sát phạt nhau bằng tiền. Cách thức đánh bạc: Mỗi người chơi được chia 9 quân bài, người chia được 10 quân và đánh trước theo chiều ngược kim đồng hồ, nếu người ngồi sau ăn được thì không bốc, nếu không ăn được thì bốc 1 quân bài và đánh cho người ngồi sau, cứ như vậy đến khi hết số bài còn lại. Người nào có phỏm, tức là có từ 3 quân bài trở lên cùng hàng (ví dụ: 2 cơ, 2 rô, 2 tép) hoặc có từ 3 quân bài trở lên liên tiếp cùng chất (ví dụ: 2 cơ, 3 cơ, 4 cơ) gọi là “phỏm” thì hạ xuống, còn lại để so điểm theo thứ tự quân bài (trong đó quân A = 1 điểm, J = 11 điểm, Q = 12 điểm, K = 13 điểm). Người nào ít điểm nhất là người thắng, người nhiều điểm nhất phải bỏ ra 60.000 đồng, người nhiều điểm thứ 2 phải bỏ ra 40.000 đồng, người nhiều điểm thứ 3 phải bỏ ra 20.000 đồng cho người thắng; người nào không có phỏm gọi là “cháy” phải trả cho người thắng 80.000 đồng; người nào có tất cả các quân bài đều là “phỏm” tức là “Ù” thì những người còn lại mỗi người phải trả cho người “ù” 100.000 đồng.
Đến khoảng 20 giờ cùng ngày Nguyễn Văn Đ, Bùi Đình S, Lê Văn T, Lê Đình Th đến nhà mục đích để đánh bạc. Tại đây H đưa cho Sóng bộ bài tú lơ khơ, sau đó Sóng cùng Th2, Đ, T đi vào gian bếp tại tầng 1 nhà H ngồi xuống chiếu đã trải sẵn dưới nền nhà để đánh bạc trái phép dưới hình thức "đánh ba cây" được thua bằng tiền. Khoảng 15 phút sau Đào Đình L đến tham gia đánh bạc cùng. Quá trình đánh bạc, Th2 thu của Đ, S, T, L mỗi người 50.000 đồng, Th2 tự bỏ ra 50.000 đồng, tổng được 250.000 đồng đưa cho H, gọi là tiền "Hồ". H cầm tiền rồi đi ra phòng khách xem tivi. Cách thức đánh bạc: Trước khi chơi mỗi người chơi được chia 3 quân bài để chọn ra người nào nào nhiều điểm nhất là người cầm chương. Người cầm chương chia bài, có trách nhiệm trả tiền cho người thắng và thu tiền của người thua. Khi cộng 3 quân bài, ai được nhiều điểm hơn người cầm chương là người thắng và được số tiền bằng số tiền đã đặt, ai ít điểm hơn người cầm chương là người thua và bị mất toàn bộ số tiền đã đặt, mức đặt cược thấp nhất 50.000 đồng, không quy định mức cao nhất. Nếu trong ván bài đó có người nào có 3 quân bài cộng lại được 10 điểm thì được cầm chương của ván sau. Nếu tổng điểm của 3 quân bài lớn hơn 10 thì tính điểm là số hàng đơn vị. Nếu trong ván bài có người bằng điểm với người cầm chương thì so sánh chất và quân bài của những người chơi để xác định người thắng, cụ thể: Quân bài lớn nhất là A rối đến 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2; chất lớn nhất và nhỏ nhất theo thứ tự là: Rô, Cơ, Bích, Tép.
Cứ như vậy các đối tượng đánh bạc đến 21 giờ cùng ngày, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng, số tiền của những người tham gia đánh bạc.
Quá trình điều tra xác định tổng số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc tại chiếu đánh "phỏm" là 8.120.000 đồng, gồm: Thu giữ trên chiếu bạc 1.940.000 đồng, thu trên người L 3.030.000 đồng, Th 2.450.000 đồng, Quí 600.000 đồng dùng vào việc đánh bạc, Th1 tự nguyện giao nộp 100.000 đồng dùng vào việc đánh bạc; Tổng số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc tại chiếu đánh "ba cây" là 9.600.000 đồng, gồm: Thu giữ trên chiếu bạc 2.500.000 đồng, thu trên người L 1.900.000 đồng, T 800.000 đồng, S 100.000 đồng, Đ 3.050.000 đồng, Th2 1.000.000 đồng dùng vào việc đánh bạc và số tiền 250.000 đồng tiền hồ do Huấn giao nộp.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đã quyết định:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Đình H phạm tội “ Gá bạc”, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS, Xử phạt bị cáo Phạm Đình H 12 (mười hai) tháng tù về tội Gá bạc được trừ đi 03 (ba) ngày tạm giữ, còn phải thi hành 11 (mười một) tháng 27 (hai bảy) ngày tù, thời gian tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên về tội danh, hình phạt, vật chứng, án phí sơ thẩm hình sự, quyền kháng cáo của các bị cáo khác.
Ngày 31/01/2019 bị cáo Phạm Đình H kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo thừa nhận Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xét xử về tội danh là đúng, bị cáo không kháng cáo nội dung này. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và tự nguyện nộp tiền án phí sơ thẩm theo bản án đã tuyên. Trong quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo tích cực phối hợp Cơ quan công an thành phố Chí Linh trong việc phát hiện tội phạm. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) sửa bản án hình sự sơ thẩm theo hướng xử phạt bị cáo Phạm Đình H 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội Gá bạc, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho địa phương nơi bị cáo để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo trong thời gian luật định nên là kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung, HĐXX xét thấy: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 18 giờ 30 phút đến 21 giờ ngày 26/10/2018, tại thôn P, xã H, huyện Bi, tỉnh Hải Dương, Phạm Đình H có hành vi dùng nhà ở của mình, chuẩn bị 02 bộ bài tú lơ khơ, thu 250.000 đồng tiền hồ để cho Lê Đình L, Lê Đình Q, Đoàn Trọng Th, Đặng Hữu Th1, Nguyễn Văn Đ, Bùi Đình S, Lê Đình Th2, Lê Văn T, Đào Đình L đánh bạc trái phép sát phạt tiền lẫn nhau dưới hình thức đánh "Phỏm" và "ba cây" tại 2 chiếu bạc với tổng số tiền là 17.720.000 đồng. Trong đó: số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc tại chiếu đánh "phỏm" của Q, Th1, Th, L là 8.120.000 đồng; tại chiếu bạc đánh "ba cây" của Đ, S, Th2, T, L là 9.600.000 đồng. Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Bình Giang đã xét xử bị cáo Phạm Đình H về tội Gá bạc theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, về tội danh bị cáo không kháng cáo nên HĐXX không xem xét.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Đình H, HĐXX xét thấy: Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đã xử phạt bị cáo Phạm Đình H 12 (mười hai) tháng tù về tội Gá bạc, bị cáo là người chuẩn bị công cụ, thu tiền hồ và cho 09 người khác chia làm 02 chiếu bạc để đánh bạc trái phép tại gia đình mình nên bị cáo phạm tội độc lập với các bị cáo khác. Do vậy cấp sơ thẩm đã áp dụng đứng tính chất hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và tuyên mức hình phạt đối với bị cáo như trên là phù hợp, có căn cứ pháp luật nên cần giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan Công an thành phố Chí Linh trong việc phát hiện tội phạm, bị cáo tự nguyện nộp tiền án phí theo quy định thể hiện sự ăn năn, hối cải và ý thức chấp hành pháp luật. Do vậy, cần áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo có nơi cư trú ổn định, chấp hành tốt pháp luật, việc cho bị cáo được hưởng án treo không ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Căn cứ Điều 65 của Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Đình H sửa bản án hình sự sơ thẩm, như vậy là phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của BLTTHS.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Đình H và sửa bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Phạm Đình H.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322; điểm t, s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Đình H 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo về tội Gá bạc. Thời gian thử thách 24 (hai mươi tư) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Phạm Đình H cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Đình H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 50/2019/HS-PT ngày 10/05/2019 về tội gá bạc
Số hiệu: | 50/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về