TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, NGHỆ AN
BẢN ÁN 50/2018/HS -ST NGÀY 26/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Trong ngày 26 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 47/2018/TLST - HS ngày 02 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 63/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:
Hồ Thị L, sinh ngày 15/9/1970 tại khối E, phường QX, thị xã H, tỉnh Nghệ an. Nơi cư trú: Khối E, phường QX, thị xã H, tỉnh Nghệ an; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc Tịch: Việt Nam; con ông Hồ Đình T, sinh năm 1948 và bà Trần Thị T, sinh năm 1948; chồng: Nguyễn Cảnh K, sinh năm 1962, con: Có 03 con , lớn nhất sinh năm 1990 nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng LT.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn H, chức vụ: Tổng giám đốc, vắng mặt Địa chỉ: số I đường HQV, phường NĐ, quận CG, thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1959, có mặt
Trú tại: Khối ST, phường QD, thị xã H, tỉnh Nghệ An.
Anh Trần Văn M, sinh năm 1986, vắng mặt
Trú tại: Xóm A, xã QL, thị xã H, tỉnh Nghệ an.
Anh Hồ Bá T, sinh năm 1977, vắng mặt
Trú tại: Khối C, phường QX, thị xã H, tỉnh Nghệ an.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 7 giờ ngày 03/02/2018, tổ công tác Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Nghệ an phối hợp với Công an thị xã Hoàng Mai đang làm nhiệm vụ tại khu vực mỏ đá lèn Ba Voi thuộc phường QD, thị xã H thì phát hiện Trần Văn M đang xách 02 bì tải đi lên khu vực khai thác đá lèn Ba Voi. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì bên trong 02 bao tải M xách có chứa các hạt tinh thể màu trắng, 52 ống kim loại hình trụ một đầu gắn dây điện, 02 cuộn dây điện và 01 ống nhựa; M khai số đồ vật trên là của Hồ Thị L làm việc tại Công ty TNHH LM (gọi tắt là công ty LM) nhờ mang lên mỏ đá lèn Ba Voi đưa cho thợ nổ mìn sử dụng để khai thác đá, tổ công tác yêu cầu M mang toàn bộ số đồ vật trên đến gặp L tại công ty LM để làm việc. Qua làm việc, L khai nhận toàn bộ số đồ vật trên mà M mang lên lèn Ba Voi là thuốc nổ, kíp nổ, dây điện và ống nhựa dùng để xúc thuốc nổ do L đưa cho M mang lên mỏ đá để sử dụng nổ khai thác đá. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc và tạm giữ các đồ vật nói trên, đưa về cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Nghệ An để tiếp tục xác minh, làm rõ.
Tại cơ quan điều tra, L khai nhận: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng LT (gọi tắt là công ty LT) được UBND tỉnh Nghệ an cấp giấy phép khai thác khoáng sản và được phép sử dụng vật liệu nổ để khai thác đá; Nguyễn Cảnh K là phó giám đốc kiêm chỉ huy nổ mìn của Công ty LT có việc bận nên L đã giúp K làm việc tại công ty LT. L đưa hộ chiếu nổ mìn, phiếu xuất kho vật liệu nổ theo quy định của công ty LT và yêu cầu Nguyễn Văn A là thủ kho xuất kho vật liệu nổ cho L theo số lượng trong hộ chiếu nổ mìn và phiếu xuất kho; vì biết L là vợ K và có hộ chiếu nổ mìn cùng phiếu xuất kho vật liệu nổ nên A đã xuất vật liệu nổ cho L:
Ngày 20/12/2017, A xuất kho 50kg thuốc nổ, 46 kíp nổ điện số 8 cho L, L nhận và giao cho thợ nổ mìn của công ty LT sử dụng nổ mìn khai thác đá cho công ty LT. Quá trình sử dụng, còn lại một số kíp nổ không sử dụng hết, thợ nổ mìn đã giao lại cho L, L không nhập lại kho vật liệu nổ của công ty LT mà cất tại kho dụng cụ của công ty LM.
Ngày 01/02/2018, A xuất kho 50kg thuốc nổ, 50 kíp nổ điện số 8 cho L, L lấy thêm số kíp nổ cất trước đó và giao cho thợ nổ mìn của công ty LT sử dụng nổ mìn khai thác đá cho công ty LT. Do máy móc hư hỏng nên ngày 01/02/2018 thợ nổ mìn không nổ hết nên đã giao lại cho L, L không nhập lại kho vật liệu nổ của công ty LT mà cất tại kho dụng cụ của công ty LM và không báo cáo với lãnh đạo công ty LT, với mục đích để sau này khi cần thiết thì đưa ra để công nhân công ty LM sử dụng khai thác đá mặc dù công ty LM và Hồ Thị L không được cấp phép vật liệu nổ.
Sáng ngày 03/02/2018, lợi dụng việc công ty LT nghỉ không làm việc, L lấy số vật liệu nổ đã cất giấu ngày 01/02/2018 trong kho dụng cụ của công ty LM ra nhờ M mang lên mỏ đá lèn Ba Voi để đưa cho Hồ Bá T là công nhân khoan, đạp đá của công ty LM sử dụng vào việc khai thác đá cho công ty LM; khi M đang trên đường đưa vật liệu nổ cho T thì bị lực lượng chức năng kiểm tra, phát hiện.
Ngày 05/02/2018, Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ an đã mở niêm phong xác định trọng lượng là 27,5kg, 52 kíp nổ điện, 02 cuộn dây điện, 01 ống nhựa.
Tại bản kết luận giám định số 1203/C54-P2, ngày 05/3/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Mẫu vật (ký hiệu M1, M2) đều là thuốc nổ công nghiệp ANFO; Mẫu vật (ký hiệu M3, M4, M5) đều là kíp nổ điện vỏ nhôm.
Tại bản cáo trạng số 109/CT -VKS-P1, ngày 25 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ an đã truy tố bị cáo Hồ Thị L về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 305 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hồ Thị L phạm tội "Tàng trữ trái phép vật liệu nổ".
Đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 305, điểm s,t,u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Hồ Thị L 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có chồng là thương binh nên miễn phạt tiền bổ sung.
Về trách nhiệm dân sự: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng LT không yêu cầu gì nên miễn xét.
Về vật chứng vụ án: 27,5 kg thuốc nổ, 52 kíp nổ, 02 cuộn dây điện và 01 ống nhựa đã được Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Nghệ an ra quyết định xử lý bằng hình thức tiêu hủy.
Ý kiến của nguyên đơn dân sự là ông Nguyễn Văn H tại biên bản lấy lời khai ngày 24/7/2018: Công ty TNHH LM không phải là công ty con của công ty LT; về phần bồi thường thiệt hại thì công ty LT không yêu cầu chị Hồ Thị L phải bồi thường; về phần hình phạt ông đề nghị xem xét xử chị L mức hình phạt nhẹ nhất.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai, Công an tỉnh Nghệ an, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo với biên bản sự việc, tang vật chứng thu được là hoàn toàn phù hợp về thời gian, địa điểm, số lượng vật liệu nổ bị cáo tàng trữ. Nên có đủ căn cứ kết luận ngày 03/02/2018, Hồ Thị L có hành vi giữ lại (tàng trữ) 27,5 kg thuốc nổ, 52 kíp nổ, 02 cuộn dây điện và 01 ống nhựa.
Đây là loại vật liệu nổ Nhà nước quy định việc chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Bị cáo Hồ Thị L không có giấy phép về lĩnh vực này.
Trong vụ án này, Nguyễn Văn A đã có hành vi xuất vật liệu nổ giao cho L là việc làm sai quy định trong công tác quản lý vật liệu nổ, tuy nhiên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; Cơ quan An ninh điều tra đã yêu cầu Công ty LT có hình thức xử lý đối với A là đúng.
Trần Văn M là người giúp L mang số vật liệu nổ lên mỏ đá lèn Ba Voi, tuy nhiên M không biết đây là số vật liệu nổ do L cất giấu mà có mà nghĩ rằng đây là số vật liệu nổ do công ty LT xuất ra để khai thác đá; vì vậy, không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với M.
Quá trình phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ vật liệu nổ của mình không có giấy phép là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu hiểu biết nên vẫn thực hiện.
Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên có đủ căn cứ kết luận Hồ Thị L phạm tội: “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 305 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội; Xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vật liệu nổ. Do vậy phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng.
Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải; Sau khi phạm tội đã cứu người bị nạn; Có công trong phòng chống tội phạm; Chồng bị cáo là thương binh, con đã lập gia đình và còn lại đi học xa, bị cáo là lao động chính trong gia đình; Chính quyền địa phương có công văn đề nghị cho bị cáo được cải tạo tại địa phương. Do đó, bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, có địa chỉ và nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương như Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ niềm tin để bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có chồng là thương binh nên miễn phạt tiền bổ sung.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng LT không yêu cầu gì nên miễn xét.
[7] Về xử lý vật chứng vụ án: Đối với số tang vật thu giữ được là 27,5 kg thuốc nổ, 52 kíp nổ, 02 cuộn dây điện và 01 ống nhựa do ẩm ướt, sử dụng không an toàn nên đã được Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Nghệ an ra quyết định xử lý bằng hình thức tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 305; điểm s, t, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Hồ Thị L phạm tội "Tàng trữ trái phép vật liệu nổ".
Xử phạt: Bị cáo Hồ Thị L 30 (ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/7/2018).
Giao bị cáo Hồ Thị L cho UBND phường QX, thị xã H, tỉnh Nghệ an giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Hồ Thị L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Nguyên đơn dân sự; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 50/2018/HS-ST ngày 26/07/2018 về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ
Số hiệu: | 50/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về