Bản án 50/2017/HSST ngày 28/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 50/2017/HSST NGÀY 28/06/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2017, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 42/2017/HSST, ngày 26 tháng 5 năm 2017, đối với bị cáo: Họ và tên: Trần Huy T, sinh ngày 15/12/1982

Nơi đăng ký NKTT: Xóm VH, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Trần Văn T, sinh năm 1958 và bà Dương Thị T, sinh năm 1961; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ, con chưa có; Tiền án: Không, tiền sự: Ngày 25/11/2016 bị Chủ tịch UBND xã ML xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản;  Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày nào, hiện tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Bà Trần Thị S, sinh năm 1961 - Có đơn xin xét xử vắng mặt

Trú tại: Xóm VH, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Bùi Trung T, sinh năm 1951 – Có đơn xin xét xử vắng mặt

Trú tại: Xóm TQ, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Huy T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Trần Huy Toàn là đối tượng nghiện ma túy, do không có tiền để mua ma túy sử dụng nên khoảng 11 giờ ngày 24/02/2017 sau khi ăn cơm ở nhà xong, Trần Huy T lấy 01 con dao quắm (dài 40cm cả chuôi, bản dao rộng 04cm) ở dưới bếp của gia đình rồi đi bộ một mình sang nhà bà Trần Thị S (SN 1961, trú tại xóm VH, xã HTh, huyện ĐH, tỉnh TN) với mục đích trộm cắp tài sản. T trèo qua tường rào vào khu vực phía sau vườn nhà bà S. T quan sát quanh nhà bà S thấy không có đồ vật gì lấy được nên đã đi về phía nhà tắm và dùng dao cậy cửa nhôm kính của nhà tắm rồi đi vào trong. T nhìn thấy 01 bình nóng lạnh màu trắng đỏ nhãn hiệu Funiki (dung tích 25L, serial 5075250262). Do bình nóng lạnh được lắp ở vị trí cao so với tầm tay của T (treo cao 2,27m) nên T đã quay ra phía ngoài sân lấy 01 can nhựa màu xanh loại 20lit vào trong nhà tắm, T đứng lên trên chiếc can và dùng tay để vặn tháo bình nóng lạnh xuống. Sau đó T đi đến cửa chuồng gà nhà bà S lấy 01 chiếc bao tải màu xanh kích thước khoảng 150x70cm để bọc chiếc bình nóng lạnh, rồi T đến cửa bếp nhà bà S lấy 01 đoạn dây thừng dài khoảng 02m buộc ngang chiếc bình nóng lạnh. Tiếp đó, T cầm đầu dây trèo lên tường rào sau nhà bà S, kéo dây thừng cùng bình nóng lạnh lên và thả chiếc bình ra bên ngoài tường rào nhà bà S. T vác chiếc bình nóng lạnh trên vai đi đến nhà ông Bùi Trung T (SN 1951, trú tại xóm TQ, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên) để bán với giá 400.000đ. T nói với ông Bùi Trung  T đây là bình nóng lạnh của gia đình T mang đi bán. Ông T đồng ý và đưa cho T số tiền 400.000đ. Số tiền trên T đã đi mua ma túy về để sử dụng cho bản thân và tiêu sài cá nhân hết.

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 24/02/2017 bà Trần Thị S đi làm về phát hiện trong nhà tắm bị mất 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Funiki, nên đã có đơn trình báo gửi đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Hỷ đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/3/2017, Hội Đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đồng Hỷ xác định giá trị chiếc bình nóng lạnh loại Funiki dung tích 25L đã qua sử dụng mà T trộm cắp của bà S có giá trị là 950.000đ (Chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án:

- 01 con dao màu đen, loại dao quắm, có chiều dài cả chuôi 40cm, rộng 4cm, chuôi dao làm bằng sắt màu đen.

- 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Funiki, Model: HP25, màu trắng đỏ, Serial: 5075250262 đã qua sử dụng. Ngày 08/3/2017 cơ quan CSĐT cũng đã thu hồi chiếc bình nóng lạnh loại Funiki dung tích 25L trả cho bà S quản lý, sử dụng.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa hôm nay người bị hại bà Trần Thị S có đơn xin xét xử vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 24/02/2017 khi bà đi làm về thì phát hiện bị mất 01 chiếc bình nóng lạnh loại Funiki dung tích 25L nên đã làm đơn trình báo công an. Hiện nay bã đã nhận lại được tài sản là chiếc bình nóng lạnh loại Funiki do cơ quan cảnh sát điều tra trả lại, bà không có ý kiến, đề nghị gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi Trung T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong hồ sơ ông khai: Khoảng hơn 11 giờ ngày 24/02/2017 ông đang ở nhà thì có Trần Huy T đèo chiếc bình nóng lạnh loại Funiki đến nói là bình nóng lạnh nhà T, bảo cắm cho ông với 200.000 đồng, ông T đồng ý đưa tiền cho Toàn 200.000đ. Sau khi nhận tiền T bảo ông T đèo đến nhà ông X, trên đường đi T gạ bán chiếc bình nóng lạnh lại cho ông với giá 500.000 đồng nhưng ông không đồng ý, chỉ đồng ý mua với giá 400.000 đồng vì ông hết chỉ còn 200.000 đồng trong túi và đưa nốt cho T. Sau đó ông lại đèo T đi về. Ông không biết chiếc bìn  nóng lạnh do T trộm cắp mà có được, sau Công an thông báo cho ông chiếc bình nóng lạnh nhãn hiệu Funiki ông mua lại của T là tài sản do T trộm cắp của nhà bà Sửu nên ông đã tự giác giao nộp lại cho cơ quan điều tra. Đối với số tiền ông mua bình nóng lạnh của T ông không yêu cầu T phải trả lại cho ông.

Tại bản cáo trạng số: 50/KSĐT - KT ngày 20/5/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Trần Huy T về tội: "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, sau khi phân tích đánh giá vụ án, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Huy T phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

-  Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm h, p, r khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Huy T từ 6 đến 9 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên không xem xét.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 40cm.

Truy thu số tiền 400.000 đồng do bị cáo bán tài sản trộm cắp được mà có.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo của người bị hại, sơ đồ hiện trường, đặc điểm loại tài sản bị chiếm đoạt, Biên bản định giá tài sản, lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập trong quá trình điều tra. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 11 giờ ngày 24/02/2017 lợi dụng nhà bà S không có ai ở nhà, bị cáo Trần Huy T đã có hành vi trèo tường, dùng con dao cậy cửa nhôm kính nhà tắm của nhà bà Sửu trộm cắp 01 chiếc xe bình nóng lạnh loại Finiki dung tích 25 lít trị giá 950.000đồng. Sau đó đem bán cho ông Bùi Trung T lấy 400.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Với hành vi lén lút lấy trộm của bà S 01 chiếc bình nóng lạnh trị giá 950.000 đồng. Trước đó ngày 25/11/2016 bị cáo Trần Huy T đã bị chủ tịch UBND xã ML xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Nội dung Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự, có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục riêng bị cáo, đồng thời răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, chưa có tiền án, nhưng có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ tỏ ra ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây hậu quả không lớn, sau khi có hành vi vi phạm bị cáo đã tích cực giúp công an huyện Đồng Hỷ điều tra, phát hiện tội phạm, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h, p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo tuy chưa có tiền án, nhưng đã có 01 tiền sự về cùng hành vi, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà do nghiện nên vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xem xét một mức án phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

Cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự, nhưng xét thấy bị cáo là là đối tượng nghiện chất ma túy nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi Trung T không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả cho ông số tiền 400.000 đồng ông mua bình nóng lạnh của bị cáo nênHội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Đối với 01 con dao loại dao quắm chiều dài 40 cm bị cáo dùng để cậy cửa phòng tắm nhà bà Sửu, xét thấy đây là công cụ để bị cáo thực hiện tội phạm, không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên toà hôm nay cơ bản là phù hợp cần chấp nhận.

Trong vụ án này còn có ông Bùi Trung T là người mua chiếc bình nóng lạnh loại Funiki dung tích 25L của T, nhưng ông T không biết đó là tài sản do Toàn trộm cắp mà có, nên không có cơ sở để xem xét xử lý.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Huy T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p, q khoản 1 Điều 46 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần Huy T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành bản án này.

2. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao màu đen, loại dao quắm, có chiều dài cả chuôi 40cm, rộng 4cm, chuôi dao làm bằng sắt màu đen..

(Số vật chứng nêu trên hiện đang ở kho của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2017).

Buộc bị cáo Trần Huy T phải nộp lại số tiền 400.000 đồng là tiền bán tài sản trộm cắp sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Trần Huy T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án. Vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 50/2017/HSST ngày 28/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;