Bản án 50/2017/HNGĐ-ST ngày 16/06/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 50/2017/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 731/2016/TLST-HNGĐ ngày29 tháng 12 năm 2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 57/2017/QĐXX-ST ngày 12/5/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/QĐHPT-STngày 30/5/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương T. H, sinh năm: 1974.

Nơi cư trú: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Hồ M. T, sinh năm: 1968.

Nơi cư trú: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trương T. Htrình bày: Bà và ông Hồ M. T chung sống với nhau vào năm 1989 nhưng đến năm2004 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N có 03 con chung là Hồ T. H. Ng- sinh năm 1989, Hồ M. G - sinh năm 1992 và Hồ T. M. D - sinh năm 1993. Quá trình chung sống thì đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông T đánh đập bà, đập phá đồ đạc nhiều lần, quan hệ bất chính với người khác và không có trách nhiệm với gia đình nhưng bà vẫn chịu đựng vì con cái. Bà đã khuyên giải nhiều lần nhưng ông T vẫn không thay đổi nên vợ chồng bà đã ly thân và không quan tâm đến nhau đã gần một năm vì cuộc sống chung không hạnh phúc. Nay không còn tình cảm nữa nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T. Về con chung, các cháu đã trưởng thành.Về tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Hồ M. T được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên không lấy được lời trình bày:

Tại phiên tòa, Đại diên viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở vì tình cảm của bà H không còn đối với ông T, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H là phù hợp theo quyđịnh tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung thì đã trưởng thành. Về tàisản chung, bà H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông T cố tình vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Trương T. H yêu cầu được ly hôn với ông Hồ M. T nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương T. H và ông Hồ M. T chung sống với nhau từ năm 1989 nhưng đến năm 2004 mới đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N cấp giấy chứng nhận kết hôn số 21 ngày 24/3/2004 nên Tòa công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, theo lời trình bày của nguyên đơn thì đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông T đánh đập bà, đập phá đồ đạc nhiều lần, quan hệ bất chính với người khác và không có trách nhiệm với gia đình nhưng bà vẫn chịu đựng vì con cái. Bà đã khuyên giải nhiều lần những ông T vẫn chứng nào tật nấy nên vợ chồng bà đã ly thân và không quan tâm đến nhau đã gần một năm vì cuộc sống chung không hạnh phúc. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà Trương T. H và ông Hồ M. T thể hiện trong “ quá trình chung sống nãy sinh mâu thuẩn do ông T có quan hệ ngoại tình và không có trách nhiệm với gia đình nên đã không sống chung với nhau nữa”. Ông T đã được triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ nhưng vẫn không có mặt là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm của bà H không còn đối với ông T, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Trương T. H.

 [3.2] Về con chung: Đã trưởng thành.

 [3.3] Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

 [5] Về án phí:

Bà Trương T. H phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án 

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều264; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bàTrương T. H: Bà Trương T. H được ly hôn với ông Hồ M. T.

2. Án phí: Bà Trương T. H phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 200.000đ nhưng được trừ vào 200.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0012965 ngày 22/12/2016 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 50/2017/HNGĐ-ST ngày 16/06/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:50/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;