TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 50/2017/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON VÀ CẤP DƯỠNG
Ngày 08 tháng 9 năm 2017 tại phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 156/2017/TLST-HNGĐ, ngày 24/5/2017 “V/v tranh chấp về hôn nhân - gia đình ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2017/QĐXXST-HNGĐ, ngày 28 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Ngọc D - Sinh năm: 1981.
Địa chỉ: khóm TT, phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. (Có mặt tại phiên tòa).
- Bị đơn: Nguyễn Huỳnh T - Sinh năm: 1986.
Địa chỉ: 805A/5 ấp Hòa Định, xã Vĩnh Thới, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 10/5/2017 và tại phiên tòa nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc D trình ày:
Vào năm 2007 Nguyễn Thị Ngọc D và Nguyễn Huỳnh T sống chung như vợ chồng không tổ chức lễ cưới, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng có con chung là Nguyễn Thị Hồng Thắm, sinh ngày 31/10/2010, đang do Nguyễn Thị Ngọc D nuôi dưỡng. Trong quá trình sống chung có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không quan tâm lẫn nhau, thường xuyên cự cải, Nguyễn Huỳnh T làm ăn bất chính vi phạm pháp luật, nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Nay Nguyễn Thị Ngọc D yêu cầu được ly hôn với Nguyễn Huỳnh T; Về con chung Nguyễn Thị Ngọc D yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con và không yêu cầu Nguyễn Huỳnh T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung trong đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 07/7/2017 và tại phiên tòa Nguyễn Thị Ngọc D vẫn ảo lưu xin rút không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với phần tài sản; Về nợ chung Nguyễn Thị Ngọc D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn Nguyễn Huỳnh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như để tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, không có lý do chính đáng nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Huỳnh T theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Nguyễn Thị Ngọc D và Nguyễn Huỳnh T sống chung như vợ chồng từ năm 2007 đến nay nhưng không có tổ chức lễ cưới và không đăng ký kết hôn theo quy định. Do đó, pháp luật không công nhận là vợ chồng, vì đã vi phạm vào khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.”Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình có ghi:
“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”
Đối chiếu khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình có ghi:
“2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này....”
[2] Về con chung: Hiện nay Nguyễn Thị Ngọc D đang trực tiếp nuôi Nguyễn Thị Hồng Thắm, sinh ngày 31/10/2010. Nguyễn Thị Ngọc D yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con. Thực tế từ trước đến nay Nguyễn Thị Ngọc D đã nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo Nguyễn Thị Hồng Thắm phát triển tốt nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu nuôi con của Nguyễn Thị Ngọc D là có căn cứ, phù hợp với Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về cấp dưỡng: Đáng lý ra Nguyễn Huỳnh T không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, nhưng Nguyễn Thị Ngọc D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt thành vấn đề xem xét, giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Xét việc tại phiên tòa Nguyễn Thị Ngọc D vẫn ảo lưu xin rút không yêu cầu Nguyễn Huỳnh T trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc D chiếc xe Sirius biển số 67B1-31593 do Nguyễn Thị Ngọc D đứng tên chủ xe là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, cần được chấp nhận. Nên Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết về việc: Nguyễn Thị Ngọc D yêu cầu Nguyễn Huỳnh T trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc D chiếc xe Sirius iển số 67B1-31593 do Nguyễn Thị Ngọc D đứng tên chủ xe.
[5] Về nợ chung: Nguyễn Thị Ngọc D không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Nguyễn Thị Ngọc D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là có căn cứ, phù hợp với khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 8 Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 48, 217, 218, 219, khoản 1 Điều 273, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 8 Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa Nguyễn Thị Ngọc D và Nguyễn Huỳnh T.
2. Về con chung: Nguyễn Thị Ngọc D được quyền tiếp tục nuôi con là Nguyễn Thị Hồng Thắm, sinh ngày 31/10/2010. Nguyễn Huỳnh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Nguyễn Thị Ngọc D cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở Nguyễn Huỳnh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Đình chỉ giải quyết về việc Nguyễn Thị Ngọc D yêu cầu Nguyễn Huỳnh T trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc D chiếc xe Sirius biển số 67B1-315.93 do Nguyễn Thị Ngọc D đứng tên chủ xe.
4. Về án phí và tạm ứng án phí sơ thẩm:
4.1. Nguyễn Thị Ngọc D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số: 12691, ngày 24/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Hoàn trả lại cho Nguyễn Thị Ngọc D 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số: 12690, ngày 24/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
5. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (08/9/2017). Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa ngày 08/9/2017 thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bản án 50/2017/HNGĐ-ST ngày 08/09/2017 về tranh chấp hôn nhân - gia đình ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng
Số hiệu: | 50/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về