Bản án 492/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 492/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 471/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 489/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Bùi C (tên gọi khác Bùi Văn C, Nguyễn Thái M), sinh năm 1994 tại Nghệ An; Địa chỉ thường trú và cư trú: Xóm 15, xã D1, huyện D2, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H và bà Trần Thị P; gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai và chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2010, bị cáo Bùi Văn C (tức Bùi C) bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An (nay là Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/7/2011.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 15/7/2019 và chuyển tạm giam ngày 21/7/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Anh Trần Như Q, sinh năm 1996; cư trú tại: 14/60, Tổ 17, Khu phố 6, phường L1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (người bị hại vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Khoảng 23 giờ 50 phút, ngày 14/7/2019, Bùi C đi bộ dọc theo đường Bùi Văn H thuộc địa bàn phường L1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai sau đó rẽ vào hẻm thuộc Khu phố 6, phường L1 thì phát hiện tại dãy phòng trọ địa chỉ số: 14/60, Tổ 17 có dựng 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Viva biển số 17F4-1187 của anh Trần Như Q (sinh năm 1996, cư trú tại: Số 455 Phạm Văn Đ, Tổ 4, phường L2, thành phố K, tỉnh Kon Tum) không có người trông coi, C quan sát thấy các cửa phòng trọ đều đóng nên C đã lén lút tiếp cận chiếc xe, gạt chân chống xe và dắt lùi chiếc xe ra ngoài được khoảng 05 mét thì bị anh Q phát hiện, tri hô và cùng với một số người dân bắt giữ được C, giao cho Công an phường L lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển Công an thành phố Biên Hòa điều tra, xử lý.

Biên bản ghi lời khai, biên bản xác định địa điểm gây án, bản tự khai của Bùi C (bút lục từ số 33 đến 43); Đơn trình báo xe máy bị mất, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, đơn trình báo, biên bản ghi lời khai của người bị hại (bút lục từ số 53 đến 58); Biên bản ghi lời khai của nhân chứng (bút lục từ số 62 đến 64).

Vật chứng gồm: 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Viva biển số 17F4-1187, số khung BE42BVN-10243 và số máy E407VN-10243, là tài sản của anh Trần Như Q mua lại của bà Hà Thị Minh N, cư trú tại: Tổ 2, Đ, thị xã T, tỉnh Thái Bình đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu hồi trả lại cho anh Q (bút lục số 59, 60, 61, 70, 71).

Tại kết luận định giá tài sản số 275/TCKH-HĐĐG ngày 15/07/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Viva biển số 17F4-1187, số khung 10243 và số máy 10243, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 30%, trị giá là 2.500.000 đồng (Hai triệu, năm trăm nghìn đồng)” (bút lục số 68).

Về dân sự: Anh Trần Như Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường (bút lục số 57, 58).

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 485/CT-VKSBH ngày 30/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố Bùi C (tên gọi khác Bùi Văn C, Nguyễn Thái M về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Bùi C từ 10 (mười) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù.

4. Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

- Người bị hại trình bày trong hồ sơ vụ án: Tài sản đã nhận lại nên không yêu cầu gì; đối với trách nhiệm hình sự của bị cáo thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người bị hại là anh Trần Như Q, người làm chứng là anh Nông Đình X vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, anh Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường; người làm chứng có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử; nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ 50 phút, ngày 14/7/2019, tại dãy phòng trọ địa chỉ số:

14/60, Tổ 17, Khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Bùi C có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Viva biển số 17F4-1187 của anh Trần Như Q có giá trị là 2.500.000 đồng (hai triệu, năm trăm nghìn đồng) thì bị phát hiện, điều tra, xử lý.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, đã từng bị Tòa án xử phạt tù về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Bùi C phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 485/CT-VKSBH ngày 30/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Bùi C về tội “Trộm cắp tài sản” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội gây thiệt hại không lớn thuộc trường hợp được quy định tại Điểm h, s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Bùi C để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Người bị hại Trần Như Q đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[4] Về vật chứng:

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Viva biển số 17F4-1187, số khung BE42BVN-10243 và số máy E407VN-10243, là tài sản của anh Trần Như Q, đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu hồi trả lại cho bị hại anh Trần Như Q là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với trình bày của bị cáo được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi C (tên gọi khác: Bùi Văn C, Nguyễn Thái M) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ Khoản 1, Điều 173; điểm h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Bùi C 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 7 năm 2019.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Bùi C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 492/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:492/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;