Bản án 492/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 492/2018/HS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 682/2018/HSST ngày 12 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5409/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Hà Thành P; giới tính: nam; sinh ngày 10 tháng 5 năm 1976 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: số A đường BT, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: số A1 đường số D, khu phố E, phường G, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: không; con ông: HC (chết) và bà: CK; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không;

Tiền án:

- Ngày 28/9/2009, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về “Tội Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số 184/2009/HSST – BL 13-16); ngày 17/5/2011, chấp hành xong hình phạt tù   (Giấy chứng nhận phạm nhân chấp hành xong hình phạt tù số 333/GCN- CHXHPT của Giám thị Trại giam Tống Lê Chân – BL 3); đã nộp phạt 5.000.000 đồng theo BLT 021168 ngày 26/01/2010 và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo BLT số 020436 ngày 26/01/2010 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (hồ sơ thi hành xong vào tháng 02/2010) (Công văn số 888/CCTHADS ngày 12/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh – BL 82);

- Ngày 21/6/2012, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 176/2012/HSST – BL 17-19); ngày 26/3/2017, chấp hành xong án phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 613/GCN của Giám thị Trại giam Thủ Đức – BL 20); đã nộp 200.000 đồng án phí HSST theo biên lai thu số 2366 ngày 23/8/2012 và nộp phạt bổ sung 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước theo biên lai số 3813 ngày 23/8/2012 (Công văn số 1372/CCTHADS ngày 03/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh – BL 81);

Bị bắt, tạm giam từ ngày: 08/12/2017 (có mặt).

- Người bào chữa:

Ông VTH – Luật sư của Văn phòng Luật sư VTH, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – bào chữa chỉ định cho bị cáo Hà Thành P (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông HTD, sinh năm: 1973

Trú tại: số A2 VT, Phường I, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Diễn biến vụ án:

Vào lúc 01 giờ 05 phút ngày 08/12/2017, tại góc ngã tư đường DTG – đường NT, Phường B1, Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ tuần tra của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 phát hiện bắt quả tang Hà Thành P đang điều khiển xe gắn máy có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán, qua kiểm tra thu giữ trong quần lót bị cáo đang mặc 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, nghi vấn là ma túy; ngoài ra còn thu giữ 02 điện thoại di động; 01 máy tính bảng; 01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda, biển số 51K2-1669; 01 phiễu thủy tinh nghi dùng để sử dụng ma túy và 10.000.000 đồng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hà Thành P, Cơ quan điều tra thu giữ dưới gầm bàn trong phòng của bị cáo 02 cân tiểu li; 02 gói nylon, gồm: 01 gói bên trong có 08 gói nylon (02 gói nylon chứa tinh thể không màu, 03 gói nylon chứa chất bột màu trắng; 03 gói nylon chứa chất bột màu trắng ngà) và 01 gói bên trong có 03 gói nylon chứa chất bột màu trắng. 

Các kết luận giám định của cơ quan chuyên môn:

Tại Kết luận giám định số 107/KLGĐ-H ngày 26/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 43) thể hiện: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Hà Thành P và hình dấu Công an Phường 14, Quận 5 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 18,2968 g, loại Heroine.

Tại Kết luận giám định số 110/KLGĐ-H ngày 26/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 44) thể hiện: 02 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Hà Thành P và hình dấu công an phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân gửi đến giám định, bên trong có:

- Gói 1:

+ Bột màu trắng ngà trong 03 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 11,2782 gam, loại Heroine.

+ Bột màu trắng trong 03 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,9174 gam, loại Heroine.

+ Tinh thể không màu trong 02 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,5487 gam, loại Methamphetamine.

- Gói 2: Bột màu trắng trong 03 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,1808 gam, loại Heroine.

 Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Hà Thành P khai nhận có sử dụng ma túy đá. Bị cáo có người bạn ngoài xã hội tên Lâm (không rõ lai lịch), người này đã giới thiệu P cho người phụ nữ tên Giàu (tên khác là Sang, chưa rõ lai lịch, bán ma túy) để bị cáo đi giao ma túy cho Giàu lấy tiền công.

Khoảng 18 giờ 00 ngày 07/12/2017, khi bị cáo đang ở nhà thì Giàu điện thoại kêu P đến 01 quán cà phê vỉa hè đối diện Bến xe miền Tây, khi P đến quán thì khoảng 30 phút sau, Giàu đến và đưa cho P 01 gói nylon màu vàng bên trong chứa Heroine để giao cho đối tượng tên Bi (không rõ lai lịch) tại ngã tư đường NT – HL, Giàu đã trả công cho P 200.000 đồng. Sau khi Giàu đi thì P giấu túi nylon màu vàng có ma túy vào quần lót để không bị phát hiện. Khoảng 0 giờ 30 phút, đối tượng tên Bi (không rõ lai lịch) điện thoại hẹn P đến ngã tư NT – HL để giao ma túy, khi P đang trên đường đi giao ma túy thì bị bắt quả tang.

Đối với số ma túy thu giữ tại phòng trọ, bị cáo khai là của Lâm (không rõ lai lịch) đưa cho P cất giấu cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần để sử dụng và bán cho khách khi cần.

Tại bản Cáo trạng số 226/CT-VKS-P1 ngày 01/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Hà Thành P về “Tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa sơ thẩm, tại phần xét hỏi và tranh luận, bị cáo Hà Thành P thừa nhận có quen biết người phụ nữ không rõ lai lịch (bị cáo chỉ biết là tên Giàu hoặc Sang), có nhận giao gói nylon chứa ma túy từ người phụ nữ này cho 01 người đàn ông với tiền công 200.000 đồng nhưng cho rằng đây là gói quà, không biết có chứa ma túy. Bị cáo cho biết số ma túy thu giữ tại chỗ ở của bị cáo là do đối tượng Lâm cất giấu, không phải của bị cáo. Bên cạnh đó, bị cáo cho biết chỉ mới được tống đạt bản Kết luận điều tra vụ án số 782-25/KLĐT- PC47 (Đ5) ngày 05/4/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 10/2018.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố; sau khi phân tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhận thấy: quá trình điều tra, bị cáo Hà Thành P đã khai rõ hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên tòa, bị cáo không thừa nhận những lời khai trước đây, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo đối với bị cáo bên cạnh tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt và đề nghị xử phạt bị cáo Hà Thành P về “Tội Mua bán trái phép chất ma túy” với mức hình phạt từ 16 đến 17 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng. Ngoài ra, Kiểm sát viên cũng đề nghị xử lý phần tang vật theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hà Thành P thống nhất tội danh và điều khoản mà bản Cáo trạng truy tố. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ (bị cáo có vợ và 01 con nhưng đã bỏ đi, bị cáo gặp nhiều khó khăn về kinh tế khi tái hòa nhập xã hội…), từ đó, cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng cũng đủ tác dụng giáo dục và cải tạo.

Khi nói lời sau cùng, bị cáo Hà Thành P nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án khoan hồng và không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Người bào chữa cho bị cáo cũng không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Hà Thành P cho rằng đến tháng 10/2018 bị cáo mới được tống đạt bản Kết luận điều tra vụ án số 782-25/KLĐT-PC47 (Đ5) ngày 05/4/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tại Biên bản giao, nhận (BL 28) thể hiện ngày bị cáo được tống đạt và ký tên xác nhận là 06/4/2018 nhưng ý kiến trên của bị cáo là không có căn cứ.

Tại phiên tòa, bị cáo Hà Thành P khai có vợ và 01 con sinh năm 1998 nhưng các tài liệu lưu tại hồ sơ vụ án (02 Lý lịch bị can; Trích lục tiền án, tiền sự; Danh bản… – BL 29a-29b; 30a-30b; 22; 21…) đều thể hiện bị cáo chưa có vợ, con. Ngoài các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, hiện không có tài liệu nào khác chứng minh về việc bị cáo có vợ và con nên Hội đồng xét xử ghi nhận nội dung hoàn cảnh gia đình tại lý lịch bị cáo như trên.

[2] Quá trình điều tra vụ án thể hiện lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét,

vật chứng thu được, bản kết luận giám định… Hội đồng xét xử có căn cứ xác định nội dung vụ án đúng như bản Cáo trạng truy tố. Bị cáo Hà Thành P đã có hành vi nhận ma túy từ người bán và đem bán ma túy cho người khác nhằm hưởng lợi nên phạm “Tội Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cộng đồng và trật tự trị an xã hội.

Bị cáo Hà Thành P vừa có hành vi giúp đối tượng Giàu (không rõ lai lịch) bán ma túy cho các đối tượng không rõ lai lịch để lấy tiền công; vừa có hành vi cất giấu ma túy từ đối tượng Lâm với mục đích bán lại cho khách để hưởng chênh lệch. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và phần xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định bị cáo Hà Thành P chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy thu giữ khi bắt quả tang (18,2968 gam, loại Heroine) và khi khám xét chỗ ở (21,3764 gam, loại Heroine; 7,5487 gam, loại Methamphetamine).

Số ma túy mà bị cáo Hà Thành P phải chịu trách nhiệm là tình tiết định khung quy định tại điểm h khoản 3 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bên cạnh đó, năm 2009 và năm 2012, bị cáo đều bị xét xử các tội danh về ma túy với mức hình phạt lần lượt là 03 năm tù và 08 năm tù, lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhằm đảm bảo mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Hà Thành P có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Tuy tại phần xét hỏi, Hà Thành P không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử xử phạt mức án khoan hồng. Do đó, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử còn áp dụng khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để phạt bị cáo một khoản tiền tịch sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định.

[3] Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Hà Thành P còn khai trước đây đã 02 lần nhận 01 gói nylon màu vàng có ma túy từ đối tượng Giàu và giao cho đối tượng Bi (tại đường NVL, Quận C và tại khu vực cầu PL, Quận C); mỗi lần nhận tiền công 200.000 đồng. Các lần giao ma túy Giàu không nói với P lấy tiền từ khách vì P biết Giàu đã giao dịch tiền với khách và không cần P lấy tiền bán ma túy về cho Giàu. Lần bị bắt quả tang là lần thứ ba bị cáo đem ma túy của Giàu đem bán cho Bi.

Do sau khi giao nhận ma túy xong, theo yêu cầu của Giàu, bị cáo P xóa số điện thoại và không lưu lại trong điện thoại nên việc Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ các đối tượng này và không có cơ sở để buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những lần mua bán ma túy trước đây.

Đối với các đối tượng tên Giàu, Lâm và Bi, do bị cáo khai không rõ lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, điều tra xử lý.

[4] Vật chứng của vụ án:

 Đối với số ma túy còn lại sau giám định chứa trong các gói niêm phong: Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 cái cân điện tử; 01 cái phễu thủy tinh: đây là công cụ thực hiện tội phạm, hiện không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

 Đối với 02 cái điện thoại di động: quá trình điều tra xác định đây là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

 Đối với 01 cái máy tính bảng và số tiền 10.000.000 đồng: Bị cáo khai đây là tài sản cá nhân do bị cáo dành dụm mua được cũng như tiền do bị cáo dành dụm và vay mượn từ bạn bè mà có nên xin được giao trả lại số tài sản trên. Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Máy tính bảng là tài sản cá nhân của bị cáo, không thuộc trường hợp phải tịch thu nên Hội đồng xét xử giao trả cho bị cáo.

- Số tiền 10.000.000 đồng là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử giao trả cho bị cáo số tiền trên nhưng tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án cho bị cáo.

 Đối với 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, biển số: 51K2-XXXX: qua xác minh thể hiện chiếc xe này do ông HTD (anh trai Hà Thành P) đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Sau khi bị cáo chấp hành án phạt tù về, ông có cho bị cáo mượn xe để đi lại, ông không biết việc bị cáo sử dụng xe để mua bán ma túy. Hiện ông D có yêu cầu được giao trả lại chiếc xe này, Hội đồng xét xử xét thấy chiếc xe không liên quan đến vụ án, ông D không biết bị cáo P có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên chấp nhận yêu cầu của ông, giao trả chiếc xe này cho ông.

[5] Các lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận một phần quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và một phần quan điểm bào chữa của Luật sư.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Hà Thành P phạm “Tội Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt:

- Bị cáo Hà Thành P: 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2017.

- Buộc bị cáo Hà Thành P nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

 Tịch thu tiêu hủy:

- 03 (ba) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 107, 110 (1,2), có chữ ký niêm phong của giám định viên Trần Đình Hải (PC 54) và điều tra viên Hồ Văn Của (PC 47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 02 (hai) cái cân điện tử.

- 01 (một) cái phễu thủy tinh.

 Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

- 02 (hai) cái điện thoại di động, ghi chú: đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong, gồm:

+ 01 (một) cái điện thoại di động Nokia;

+ 01 (một) cái điện thoại di động Iphone (màn hình bể, màu xám đen);

 Giao trả cho ông HTD 01 (một) chiếc xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Wave, biển số: 51K2-XXXX, số khung: RLHJC35095Y005356 (ghi theo số cà), số máy: JC35E-0005457 (ghi theo số cà); ghi chú: không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra được.

 Giao trả cho bị cáo Hà Thành P số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.

Giao trả cho bị cáo Hà Thành P 01 (một) cái máy tính bảng hiệu Samsung màu trắng, ghi chú: đã qua sử dụng, không kiểm tra bên trong. (Tang vật vụ án theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 272/18 ngày 02/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; tiền theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 05/4/2018 tại Kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh – BL 89A, 75).

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 492/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:492/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;