Bản án 49/2023/HS-ST về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh năm 1972; nơi sinh và nơi cư trú: Xóm X, xã HS, huyện H, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đoàn, Đảng: Không; con ông Nguyễn Văn A (tên gọi khác Nguyễn Mạnh A), sinh năm 1927 và bà Bùi Thị T (tên gọi khác Nguyễn Thị A), sinh năm 1932; anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là thứ năm; có vợ là Nguyễn Thị M, sinh năm 1975 và có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/4/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xử phạt 15 tháng tù về tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, ngày 11/5/2020 chấp hành xong hình phạt; bị tạm giữ từ ngày 17/3/2023 đến ngày 26/3/2023 chuyển tạm giam; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hải Hậu. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Ng - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định. Có mặt.

- Bị hại: Cháu Phạm Hoài A1, sinh ngày 07/7/2015; địa chỉ: Xóm X, xã HP, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1983; địa chỉ: Xóm X, xã HP, huyện H, tỉnh Nam Định (là mẹ đẻ cháu A1). Vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị B - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn M1, sinh năm 1956; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Văn A (tên gọi khác Nguyễn Mạnh A), sinh năm 1927; có mặt.

3. Anh Phạm Văn H, sinh năm 1981; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 16/3/2023, sau khi đi khám răng tại phòng khám ĐN ở thị trấn Y, huyện H, Nguyễn Văn S đi xe đạp về nhà. Khi về đến cửa hàng bán téc đựng nước của chị Phạm Thị L ở Xóm X, xã HP, huyện H thì S dừng lại dựng xe trước cửa hàng để xem téc nước. Thấy cháu Phạm Hoài A1, sinh ngày 07/7/2015 (là con chị L) từ trong nhà chạy ra nên S hỏi “Bố mẹ cháu đi đâu”, cháu A1 trả lời “Bố mẹ cháu không có ở nhà, mẹ cháu vừa đi đâu ý”. S quan sát khu vực trong nhà và ngoài sân không có ai nên nảy sinh ý định sàm sỡ cháu A1. S tiến đến dùng hai tay ôm ngang người cháu A1 từ sau ra trước rồi kéo cháu A1 vào giữa phòng khách nhà chị L, tay trái giữ tay cháu A1, tay phải S luồn vào bên trong quần chun hướng từ trên xuống dưới, tiếp xúc trực tiếp bên ngoài bộ phận sinh dục của cháu A1 khoảng 1 - 2 giây thì cháu A1 khóc vùng vẫy nên S buông cháu A1 ra, sau đó nhanh chóng ra ngoài lấy xe đạp đi về nhà. Hành vi của S đối với cháu A1 được Camera tại phòng khách nhà chị L ghi lại.

Sau khi sự việc xảy ra, chị L đã đưa cháu A đi khám tại Bệnh viện phụ sản tỉnh Nam Định, xác định: Tầng sinh môn không sưng nề, không chảy máu; màng trinh dạng vành khăn, không rách, không bầm tím, không chảy máu; niêm mạc vùng tiền đình, âm hộ xung huyết nhẹ, không chảy máu. Chị L là mẹ đẻ cháu A có đơn đề nghị xử lý hành vi của Nguyễn Văn S theo quy định pháp luật. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hậu đã ra quyết định tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn S. Thu giữ của bị cáo 01 mũ lưỡi trai màu xanh, 01 áo dài tay màu xanh và 01 xe đạp màu trắng xám, dạng xe cào cào.

Tại bản kết luận giám định khả năng tình dục nam số 15/KLKNTD-TTPY ngày 23/3/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận: Trên cơ thể và bộ phận sinh dục ngoài của Nguyễn Văn S tại thời điểm giám định không thấy xây sát, rách da và bầm tụ máu do ngoại lực. Đủ khả năng sinh lý làm cương cứng dương vật để quan hệ tình dục.

Tại bản kết luận giám định nghi can xâm hại tình dục số 18/KLKNTD- TTPY ngày 04/4/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận: Không xếp tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với cháu Phạm Hoài A1. Xung huyết âm hộ và niêm mạc vùng tiền đình do vật tày tác động trực tiếp gây nên.

Ngày 04/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hậu đã ra quyết định trưng cầu giám định 02 file video thu giữ tại nhà chị Phạm Thị L liên quan đến hành vi dâm ô của Nguyễn Văn S. Bản kết luận giám định số 698/KL- KTHS ngày 12/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh kết luận: Không phát hiện thấy dấu vết bị cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong toàn bộ mẫu gửi giám định.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của cháu Phạm Hoài A1 không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn S phải bồi thường về dân sự.

Cáo trạng số 52/CT-VKS-HH, ngày 25/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Áp dụng khoản 1 Điều 146; các điểm p, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Văn S từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo 01 mũ lưỡi trai màu xanh, 01 áo dài tay màu xanh và 01 xe đạp màu trắng xám, dạng xe cào cào.

Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm trình bày: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, cụ thể bị cáo là người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp xã hội cộng đồng; tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi; có bố mẹ đẻ là người có công với nước được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo ở mức án thấp hơn Viện Kiểm sát đề nghị. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì nên đề nghị không xem xét.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của cháu Phạm Hoài A1; bản thân bị cáo đã từng bị kết án phạt tù về tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhưng không chịu thay đổi, sửa chữa lỗi lầm mà lại tiếp tục phạm tội nên cần xử lý nghiêm để răn đe, phòng ngừa. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì nên đề nghị không xem xét.

Bị cáo nhất trí quan điểm của người bào chữa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận lỗi và xin được giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố tuy có lúc bị cáo còn khai báo quanh co nhưng tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận thực hiện hành vi đúng như cáo trạng truy tố, thừa nhận đã phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai ban đầu tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng và các kết luận giám định pháp y về tình dục cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 16/3/2023 tại nhà chị Phạm Thị L ở Xóm X, xã HP, huyện H, tỉnh Nam Định; Nguyễn Văn S đã có hành vi dùng hai tay ôm ngang người cháu Phạm Hoài A1, sinh ngày 07/7/2015 từ sau ra trước, rồi dùng tay trái giữ tay cháu A1, tay phải sờ vào bộ phận sinh dục của cháu A1 nhằm thỏa mãn dục vọng nhưng không có ý định giao cấu hay quan hệ tình dục khác với cháu A1. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; còn cháu A1 mới 07 tuổi 08 tháng 09 ngày nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 146 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“ 1. Người nào đủ 18 tuôi trơ lên mà có hành vi dâm ô đôi vơi người dươi 16 tuôi không nhăm muc đích giao câu hoăc không nhăm thưc hiện các hành vi quan hệ tình duc khác, thì bị phạt tù tư 06 tháng đên 03 năm”.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền được bảo về về thân thể, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em; ngoài ra cũng ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây bất bình trong dư luận nhân dân. Bị cáo đã từng bị kết án phạt tù về tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” nhưng không lấy đó là bài học để sửa chữa bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm, nhất là tội phạm xâm phạm tình dục của trẻ em cần phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 18/4/2019 đã bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xử phạt 15 tháng tù về tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” nhưng đã được xóa án tích. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố mặc dù có lúc bị cáo còn khai báo quanh co nhưng tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lối; bản thân bị cáo là người khuyết tật nặng đang được hưởng trợ cấp xã hội cộng đồng hàng tháng; bị cáo có bố đẻ là người có công với nước được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba, Huy chương chiến thắng hạng Nhất và có mẹ đẻ được Hội đồng bộ trưởng tặng Bằng khen đã góp công, góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm p, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 146 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét bị cáo không giữ chức vụ gì tại địa phương cư trú, chỉ làm công việc tự do nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 mũ lưỡi trai màu xanh, 01 áo dài tay màu xanh và 01 xe đạp màu trắng xám, dạng xe cào cào. Xét đây là tài sản cá nhân và phương tiện đi lại của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo xin được nhận lại các tài sản trên để sử dụng nên cần trả cho bị cáo sử dụng là phù hợp pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 146; các điểm p, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

1.1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.

1.2. Xử phạt Nguyễn Văn S 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17 tháng 3 năm 2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả cho bị cáo Nguyễn Văn S 01 mũ lưỡi trai màu xanh, 01 áo dài tay màu xanh và 01 xe đạp màu trắng xám.

Vật chứng nêu trên được mô tả như Biên bản bàn giao nhận vật chứng ngày 13/6/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hậu và Chi cuc Thi hành án dân sư huyện Hải Hậu.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2023/HS-ST về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;