Bản án 49/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2021/QĐXXST-HS ngày 05/4/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Quang L; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: xx/xx/xxxx, tại thành phố C, Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ H, khu 9, phường Mông Dương, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Quang T và bà: Mai Thị N; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 23/12/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh – Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Nguyễn Thị X –Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Xuân T, Đỗ Quý C– Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 23/12/2020, tại khu vực tổ 4, khu 11, phường M, thành phố C, Công an thành phố C bắt quả tang Lương Quang L có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và còn thu giữ của L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen, số tiền 305.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda wave màu đỏ biển kiểm soát 17F6 – xxxx.

Tại bản kết luận giám định số 148/KLGĐ ngày 29/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Lương Quang L là ma túy, loại Methamphetamin, tổng khối lượng 0,322 gam.

Bản cáo trạng số 44/CT-VKSCP ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo Lương Quang L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Lương Quang L khai nhận về hành vi phạm tội cụ thể: Bị cáo sử dụng ma túy đá từ năm 2016, khoảng 16 giờ 00 phút ngày 23/12/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đã gọi điện cho một người đàn ông không quen biết để hỏi mua 300.000 đồng ma túy, hai bên thỏa thuận đến khu vực cầu vượt phường Mông Dương, thành phố C để giao dịch, sau đó bị cáo đi xe máy đến chỗ hẹn, tại đây bị cáo đưa cho người đàn ông (không biết rõ lý lịch, địa chỉ) 300.000 đồng, người đó đưa lại cho bị cáo 01 túi ma túy đá, bị cáo cầm trên tay trái đi xe máy về hướng phường M để tìm chỗ sử dụng, đi được khoảng 20m thì bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm: 01 túi nilon kích thước 2x2,5cm bên trong chứa ma túy đá, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, 01 xe máy nhãn hiệu Honda wave biển kiểm soát 17F6 - 6452 và số tiền 305.000 đồng; điện thoại bị cáo dùng để liên lạc với người bán ma túy, chiếc xe máy bị cáo mua lại tại cửa hàng cầm đồ từ năm 2016 không có giấy đăng ký, số tiền 305.000 đồng do bị cáo lao động mà có không liên quan đến việc phạm tội. Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không bị oan. Bị cáo thấy ân hận về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Chị Nguyễn Thị X – là người làm chứng trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có lời khai cụ thể như sau: Vào đầu tháng 9/2001 chị có mua chiếc xe máy nhãn hiệu Jiulong màu xanh, biển kiểm soát 17F6-xxxx đăng ký xe mang tên chị để làm phương tiện đi lại, sau đó khoảng 2 năm chị có nhu cầu đổi xe nên đã bán chiếc xe này cho một người đàn ông ở khác xã, thời gian đã lâu nên không nhớ người mua xe là ai, ở đâu, hai bên không làm giấy tờ mua bán xe, chị không làm mất xe trong quá trình sử dụng.

Anh Nguyễn Xuân T – Đỗ Quý C là người chứng kiến trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Các anh chứng kiến công an kiểm tra Lương Quang L, thu giữ 01 túi nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, L khai nhận đó là ma túy đá ngoài ra công an còn thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda wave biển kiểm soát 17F6 - 6452 và số tiền 305.000 đồng. Công an đã tiến hành L biên bản, niêm phong số ma túy đá và các vật chứng thu giữ của L theo đúng quy định.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Lương Quang L từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2020 về tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. Trả lại cho bị cáo Lương Quang L số tiền 305.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lương Quang L không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà Lương Quang L khai nhận về hành vi phạm tội đúng với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang L hồi 17 giờ 10 phút ngày 23/12/2020; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; cũng như Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; Phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lương Quang L đã có hành vi tàng trữ 0,322 gam ma túy loại Methamphetamine vào ngày 23/12/2020 nhằm mục đích để sử dụng thì bị công an phát hiện bắt giữ nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, do vậy cần chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà còn làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử có xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội đã gây ra nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện ma túy, không có việc làm ổn định vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số:

148/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy. Cơ quan công an thu giữ của bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; số tiền 305.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda wave màu đỏ đen xác định số khung số máy bị tẩy xóa và biển kiểm soát 17F6 – xxxx mang tên chị Nguyễn Thị X, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng để xử lý sau.

[7] Đối với người bán ma túy cho bị cáo, do không biết lý lịch địa chỉ nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lương Quang L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Lương Quang L 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2020;

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì số: 148/KLGĐ còn nguyên dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model TA-1034, imei 1: 358993092863269, imei 2: 358993092863268, kèm 01 sim, 01 pin.

Trả lại cho bị cáo Lương Quang L: 305.000đ (Ba trăm linh năm nghìn đồng).

Tình trạng vật chứng, tài sản thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 106/BB-THA ngày 16/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lương Quang L phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:49/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;