Bản án 49/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 49/2020/HS-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2020/TLST - HS, ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST - HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lý Văn Y (tên gọi khác: Không), sinh ngày 03 tháng 9 năm 1992 tại huyện HB (nay là thành phố HL, tỉnh QN); Nơi cư trú: Thôn 1, xã BC, thành phố HL, tỉnh QN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; con ông Lý Văn T, sinh năm 1969 và bà Bàng Thị T, sinh năm 1968; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố UB, có mặt.

2. Lý Văn S (tên gọi khác: Không), sinh ngày 14 tháng 9 năm 1996 tại tại huyện HB (nay là thành phố HL, tỉnh QN); Nơi cư trú: Thôn 1, xã BC, thành phố HL, tỉnh QN; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; con ông Lý Văn T, sinh năm 1973 và bà Đặng Thị M, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố UB, có mặt.

3. Trần Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 30 tháng 01 năm 1998 tại huyện HB (nay là thành phố HL, tỉnh QN); Nơi cư trú: Thôn 1, xã BC, thành phố HL, tỉnh QN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn B, sinh năm 1967 và bà Trương Thị H, sinh năm 1966; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố UB, có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Vũ Đình T, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Thôn 1, xã QL, thành phố HL, tỉnh QN. Vắng mặt.

- Những người chứng kiến:

Anh Nguyễn Nam T, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Tổ 4, khu 5A, phường VD, thành phố UB, tỉnh QN. Vắng mặt.

Anh Trần Xuân M, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Thôn Tòng Hóa, xã ĐK, huyện TM, tỉnh HD. Chỗ ở hiện nay: Tổ 25, khu 7, phường QT, thành phố UB, tỉnh QN. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 20 giờ ngày 14/02/2020, tại tổ 3, khu 5A, phường VD, thành phố UB, tỉnh QN, Tổ công tác Công an phường VD bắt quả tang Lý Văn Y đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 túi nilon màu trắng, kích thước (5 x 8) cm, bên trong chứa chất tinh thể trắng. Khi Y bị bắt có 02 thanh niên đứng gần đó bỏ chạy. Ngoài ra, còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu cam biển kiểm soát 14Y1 - 064.17; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, cùng sim số 0339.054.058.

Sau khi bị bắt Y khai túi nilon chứa chất tinh thể trắng là ma túy loại “đá”, do Y và Lý Văn S, Trần Văn T cùng góp tiền để mua, khi Y bị bắt thì S và T bỏ chạy. Căn cứ lời khai của Y, Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lý Văn S và Trần Văn T, thu giữ của Tâm số tiền 310.000 đồng.

Ti bản kết luận giám định số: 172/KLGĐ ngày 19/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh QN kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,581 gam.

Ti bản cáo trạng số: 48/CT-VKSUB ngày 31/3/2020 của Viện kiểm sát nhân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Ti Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, Lý Văn Y, Lý Văn S, Trần Văn T đều khai nhận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 14/02/2020, Ý rủ S và T đi mua ma túy “đá” về cùng sử dụng, tiền mua ma túy chia đều, Sang và Tâm đồng ý. Do không có tiền nên T cùng Y và Sang đi cầm cố điện thoại của T cho anh Vũ Đình T được 1.000.000 đồng và thỏa thuận Y và S khi có tiền sẽ trả T sau. Sau đó, cả ba đi xe mô tô đến phường VD, thành phố UB. Trên đường đi, Ý gọi điện cho một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ), người này hẹn ở quán cà phê gần cầu ML thuộc tổ 3, khu 5A, phường VD, thành phố UB. Đến nơi, S và T đứng ở xe chờ, còn Y đi bộ khoảng 10 mét về phía quán cà phê, gặp và đưa cho người đàn ông 600.000 đồng. Người này đưa cho Y 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể trắng. Y cầm túi nilon trong lòng bàn tay phải đi bộ về phía S và T thì bị lực lượng công an kiểm tra, Y vứt túi nilon xuống đất nhưng bị lực lượng công an phát hiện, bắt giữ. Khi Y bị bắt, S và T bỏ chạy sau đó bị bắt khẩn cấp.

Những người chứng kiến anh Nguyễn Nam T và anh Trần Xuân M đều có lời khai được trực tiếp chứng kiến Công an thu giữ của các bị cáo Y, S và T và phù hợp với nội dung của vụ án.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lý Văn Y từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ bị tạm giữ ngày 14/02/2020; xử phạt các bị cáo Lý Văn S, Trần Văn T mỗi bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 15/02/2020.

- Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số: 172/GĐMT ngày 19/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh QN và 01 sim liên lạc số: 0339.054.058; Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung của Lý Văn Y để nộp ngân sách Nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn T số tiền 310.000đ (Ba trăm mười nghìn đồng).

Các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố thành phố UB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố UB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố không có khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố thành phố Uông Bí, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Kiểm sát viên. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều khoản áp dụng: Lời khai nhận tội của các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến là anh Nguyễn Nam T và anh Trần Xuân M; phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của các bị cáo, kết luận giám định. Những chứng cứ trên đã làm rõ thực tế khách quan về thời gian, địa điểm cũng như quá trình thực hiện tội phạm của các bị cáo. Nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 14/02/2020 tại tổ 3, khu 5A, phường VD, thành phố UB, tỉnh QN, Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T cùng góp tiền mua ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 0,581gam, mục đích để sử dụng chung.

Hành vi của các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố UB đã truy tố và kết luận về hành vi đối với các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

- Hành vi của các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác nên cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, mới có tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm nói chung.

- Xét vai trò phạm tội của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T cùng cố ý thực hiện một tội phạm, nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Nhưng về mức độ phạm tội của từng bị cáo thì Lý Văn Y là người rủ rê bị cáo S và T phạm tội nên bị cáo Y có vai chính trong vụ án nên phải chịu mức hình phạt cao hơn các bị cáo khác; sau vai trò của Y là đến vai trò của bị cáo S và T, hai bị cáo này cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội như nhau nên cùng chịu mức hình phạt như nhau là phù hợp với mức độ phạm tội của các bị cáo.

- Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hơn nữa cũng xét, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số; chưa có tiền án, tiền sự, nên cũng giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T còn có thể bị phạt một khoản tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ sung Ngân sách Nhà nước, nhưng xét các bị cáo không có công việc làm, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ trong vụ án:

- 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số: 172/GĐMT ngày 19/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh QN - đây là chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ;

- Sim số 0339.054.058 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Cơ quan điều tra thu giữ của Lý Văn Y, chiếc điện thoại này Y đã sử dụng liên lạc với người bán ma túy để mua số ma túy bị thu giữ trên, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 chiếc điện thoại OPPO Cơ quan điều tra rhu giữ của Trần Văn T, chiếc điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình Trần Văn T.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu cam biển kiểm soát 14Y1-064.17 là tài sản hợp pháp của ông Lý Văn T (bố của bị cáo Y), Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Lý Văn T là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về số tiền 310.000đ (Ba trăm mười nghìn đồng) thu giữ của Trần Văn T, đây là tài sản hợp pháp của T không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo T.

[6] Về các vấn đề khác:

Đi với người đàn ông bán ma túy, không rõ lai lịch, địa chỉ, nên HĐXX không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Mặc dù các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S đều là người dân tộc Dao, nhưng căn cứ vào Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2017 Quyết định danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực I, II, III thuộc vùng dân tộc thiểu số thì các bị cáo đang sống ở nơi không phải nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S vẫn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đi với bị cáo Trần Văn T thuộc hộ cận nghèo nên căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12; Danh mục án phí, lệ phí Toà án của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo Trần Văn T được miễn nộp tiền án phí.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm a, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23; Danh mục án phí, lệ phí Toà án của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

1. Về tội danh và mức hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Lý Văn Y 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 14/02/2020.

Xử phạt: Bị cáo Lý Văn S 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ) 15/02/2020.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ) 15/02/2020.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ trong vụ án:

Tch thu cho tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số: 172/GĐMT ngày 19/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh QN và 01 sim liên lạc số:

0339.054.058 Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung của Lý Văn Y để nộp ngân sách Nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn T số tiền 310.000đ (Ba trăm mười nghìn đồng).

Tình trạng và đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 17 tháng 4 năm 2020 giữa Công an thành phố UB và Chi cục thi hành án dân sự thành phố UB.

3.Về án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Trần Văn T được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo Lý Văn Y, Lý Văn S và Trần Văn T báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 08/5/2020 ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;