Bản án 49/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM P, TỈNH QUẢNG N

BẢN ÁN 49/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 10/3/2020; các thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 09/2020/TB-TA ngày 24/3/2020, số: 17/2020/TB-TA ngày 03/4/2020 và số: 23/2020/TB-TA ngày 16/4/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 07/10/1982 tại thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; nơi ĐKHKTT: Tổ 1, khu 6B, phường Cẩm T, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; chỗ ở: Tổ 5, khu Tân Lập 4, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Th và con bà Phạm Thị D; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 07/12/1999, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng N xét xử phúc thẩm, xử phạt 06 tháng tù về các tội: “Cướp giật tài sản của công dân” và “Trộm cắp tài sản của công dân”. Ngày 27/02/2003, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm xử phạt 08 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 25/02/2011, đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội tỉnh Quảng N; bị bắt quả tang ngày 19/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng N, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lê Quang Th, sinh năm 1975; nơi ĐKNKTT: Tổ 3, khu 8, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

- Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1960; trú tại: Tổ 1, khu 5, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

2. Anh Trịnh Văn H, sinh năm 1974; trú tại: Tổ 5, khu 7, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 19/11/2019, tại tổ 3, khu 8, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, Công an thành phố Cẩm P phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy, mục đích để bán. T giao nộp 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 ví giả da bên trong có 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ điều trị Methadone đều mang tên Nguyễn Văn T, 940.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter V, biển số 14U1 – 025.82.

Tại Bản kết luận giám định số: 873/GĐMT ngày 21/11/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng N, kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 gói giấy bạc thu của Nguyễn Văn T là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,137 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai: Bị cáo nghiện ma túy Heroine từ năm 1998 cho đến nay. Khoảng cuối tháng 10/2019, bị cáo đi đến khu vực bệnh viện Việt Tiệp, thành phố Hải Phòng mua của 01 người đàn ông không quen biết 04 gói ma túy với giá 800.000 đồng. Sau đó, bị cáo đem về nhà, sử dụng hết 03 gói, còn 01 gói, bị cáo cất giấu dưới mái tôn sau nhà bếp. Đến khoảng 10 giờ, ngày 19/11/2019, bị cáo nhận được điện thoại của Lê Quang Th hỏi mua 02 gói ma túy Heroine với giá 400.000 đồng và bảo bị cáo đem đến khu vực gần nhà nghỉ Thẩm Quyến 8, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P để giao dịch. Do cần tiền ăn tiêu nên bị cáo lấy gói ma túy giấu dưới mái tôn bếp đem đến chỗ hẹn để bán cho Thái với giá 200.000 đồng, thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố đối với bị cáo về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng ng•êi, ®óng téi, kh«ng oan.

Người làm chứng anh Lê Quang Th có lời khai tại cơ quan điều tra cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T về việc ngày 19/11/2019, anh Thái điện thoại cho T hỏi mua 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng và hẹn đến khu vực nhà nghỉ Thẩm Quyến 8, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P để giao dịch. Tuy nhiên, sau đó do anh Thái không đủ tiền nên không mua ma túy của T nữa. Sau này, anh Thái mới biết T bị Công an bắt giữ.

Người chứng kiến ông Nguyễn Văn Đ và anh Trịnh Văn H có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của nhau, thể hiện việc ông Nguyễn Văn Đ và anh Trịnh Văn H là người đã được chứng kiến Công an thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N kiểm tra, thu giữ vật chứng đối với Nguyễn Văn T đúng như bị cáo Nguyễn Văn T đã khai như nêu trên.

Bản cáo trạng số: 34/CT-VKS - CP ngày 22/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Văn T từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt quả tang 19/11/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong số: 873/GĐMT.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia màu vàng đen.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T: 01 ví giả da màu đen; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T; 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Văn T và 940.000 đồng.

Tại phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Văn T không tranh luận vấn đề gì với quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P. Bị cáo Nguyễn Văn T thấy ân hận với hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cải tạo tốt, thành người có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T, người làm chứng anh Lê Quang Th và những người chứng kiến ông Nguyễn Văn Đ và anh Trịnh Văn H, đều không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Đối với người làm chứng anh Lê Quang Th và những người chứng kiến ông Nguyễn Văn Đ và anh Trịnh Văn H, đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy quá trình điều tra họ đã có lời khai lưu tại hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293, Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vấn tiến hành xét xử, chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của họ tại phiên tòa.

[3]Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng anh Lê Quang Th; của những người chứng kiến ông Nguyễn Văn Đ và anh Trịnh Văn H và còn phù hợp với các chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P lập hồi 11 giờ 05 ngày 19/11/2019 (bút lục 33,34); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ vào hồi 12 giờ 15 phút và 12 giờ 45 phút, ngày 19/11/2019 (bút lục 36, 38); bản kết luận giám định số: 873/GĐMT ngày 21/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng N (bút lục 30); biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn T vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 19/11/2019 (bút lục 37); bản ảnh vật chứng (bút lục 35) cùng với các tài liệu khác cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 19/11/2019, tại khu vực tổ 3, khu 8, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,137 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để bán thì bị Công an bắt quả tang. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

[4]Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T đã vi phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tệ nạn mua bán và sử dụng ma túy hiện nay vẫn đang có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức;

thủ đoạn rất tinh vi, nguy hiểm trong khi Nhà nước ta đã và đang đề ra nhiều giải pháp, mở rất nhiều đợt tấn công truy quét và xử lý rất nghiêm khắc đối với tội phạm về ma túy; hành vi mua bán ma tuý của bị cáo đã tiếp tay cho các đối tượng buôn bán ma tuý lớn hoạt động và còn là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm hình sự nguy hiểm khác. Bị cáo Nguyễn Văn T là người đã trưởng thành, tuy không có trình độ văn hóa nhưng bản thân bị cáo đã nghiện ma túy từ năm 1998, đã nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bị xử phạt tù trong đó có cả tội phạm về ma túy nên bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo kém, không lấy đó làm bài học và không có ý thức rèn luyện bản thân, vẫn nghiện ma túy nên đã bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật mua ma túy vừa để sử dụng, vừa để có ai mua thì bán kiếm lời như đã nêu trên. Việc bị cáo bị phát hiện bắt quả tang là ngoài ý muốn của bị cáo nên cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm trước pháp luật.

[5]Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn T thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tuy không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu như nêu trên; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khỏan 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng dù có xem xét đến đâu thì việc bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo và góp phần phòng chống tội phạm nói chung.

[6]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn T là người nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[7]Về vật chứng của vụ án: Quá trình bắt quả tang đối với Nguyễn Văn T, đã thu giữ số vật chứng như nêu trên. Đối với số ma tuý gửi giám định còn hoàn lại 0,09 gam Heroine đựng trong phong bì niêm phong số: 873/GĐMT, đây là vật cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 ví giả da bên trong có 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ điều trị Methadone đều mang tên Nguyễn Văn T, 940.000 đồng. Quá trình điều tra xác định là giấy tờ tùy thân và tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tuyên trả lại cho bị cáo; đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia, bị cáo khai đã sử dụng làm phương tiện để liên lạc mua bán ma túy nên tuyên tịch thu vào ngân sách nhà nước; đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter V, biển số 14U1 – 025.82, quá trình điều tra xác định đã bị đục, tẩy xóa số khung, số máy, không xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra tách ra làm rõ, xử lý sau.

[8]Đối với: - Lê Quang Th là người gọi điện thoại hỏi mua ma túy của bị cáo Nguyễn Văn T, nhưng sau đó Th không mua nữa nên không đề cập xử lý.

- Người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn T tại Hải Phòng (theo bị cáo T khai), quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có cơ sở để làm rõ.

[9]Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19/11/2019.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong số: 873/GĐMT.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia, màu vàng đen kèm 01 sim, đã cũ, đã qua sử dụng.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T: 01 ví giả da màu đen đã qua sử dụng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T; 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Văn T và 940.000 đồng (Chín trăm bốn mươi nghìn đồng).

(Tiền và vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 104/BB-THA ngày 08/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm P).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm cã mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;