Bản án 49/2020/HS-ST ngày 01/06/2020 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 49/2020/HS-ST NGÀY 01/06/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn T, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1993; nơi sinh và nơi cư trú: Tổ dân phố Y, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn T và bà Lưu Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: 01 tiền sự: Ngày 27/4/2018, Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên có Quyết định số 10/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Bùi Văn T. Ngày 17/8/2019 T chấp hành xong, trở về địa phương.

- Nhân thân: Ngày 06/5/2013, Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên có quyết định số 1708/QĐ-CT đưa T đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục - Lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 30/5/2015, T chấp hành xong, trở về địa phương. Ngày 29/4/2017, Công an huyện Bình Xuyên ra Quyết định xử phạt hành chính số 31, hình thức phạt tiền 500.000 đồng đối với T về hành vi sử dụng trái pháp chất ma túy. T đã nộp phạt ngày 08/5/2017. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/10/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

2. Nguyễn Huy C, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1997; nơi sinh và nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Huy Đ và bà Lưu Thị H; vợ: Chu Thị T (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/10/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt” Bị hại:

- Chị Phùng Thị N, sinh năm 1973.

Địa chỉ : Thôn T, xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

- Chị Nguyễn Thị Thuỷ N, sinh năm 1986.

Địa chỉ : Tổ dân phố N, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

- Bà Lưu Thị H, sinh năm 1968; nơi cư trú: Tổ dân phố Y, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc“ vắng mặt”.

-Bà Lưu Thị H, sinh năm 1972, nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc “ vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn T và Nguyễn Huy C có mối quan hệ quen biết nhau nên ngày 20/10/2019, T đã rủ C đi cướp giật tài sản, C đồng ý.T và C đã thực hiện 2 vụ cướp giật tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 21/10/2019, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SUNFAT màu đen, BKS 88K3 - 1309 mượn của anh Nguyễn Đức Q đến chơi. Tại đây T gặp C đang chơi điện tử, do không có tiền tiêu sài nên T rủ C đi cướp giật tài sản, C đồng ý sau đó C điều khiển xe mô tô BKS 88K3 - 1309 chở T đi đến đoạn đường thôn Hàm Rồng, xã Tam Hợp thì T nhìn thấy chị Phùng Thị N đang điều khiển xe mô tô BKS 88S3 - 2348 đi về hướng thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên (ngược chiều đi của C và T), phần yếm xe có treo 01 túi nilon màu xám, T bảo C điều khiển xe quay lại đi theo chị N, khi đến đoạn đường thuộc thôn Chợ Nội, xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên thì C điều khiển xe đi từ phía sau lên áp sát bên phải xe mô tô của chị N, T ngồi sau dùng tay trái giật lấy túi nilon treo ở móc bên phải giữa thân xe của chị N rồi cả hai bỏ chạy. Trên đường đi, T ngồi sau kiểm tra tài sản vừa cướp giật được thấy có: 01 điện thoại Huawei màu vàng, 01 túi xách giả da màu đen có dây đeo bằng kim loại, kích thước khoảng 20 x 10cm, trong túi có 250.000 đồng, 01 thẻ căn cước công dân, 01 thẻ ATM Ngân hàng Agribank, 01 thẻ ATM Ngân hàng BIDV, đều mang tên chị Phùng Thị N. C và T đi đến khu vực ngõ 5, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên dùng tiền cướp giật được, mua được của một người phụ nữ không quen biết 01 gói nhỏ ma túy với giá 200.000 đồng rồi cùng nhau sử dụng, sau đó cả hai đi về, khi đến đường mới Tân Phong, cách ngã tư giao cắt với quốc lộ 2A khoảng 500m, T lấy số tiền còn lại và chiếc điện thoại Huawei, còn chiếc túi và các giấy tờ T vứt ở ven đường đoạn đường liên xã Hương Canh đi Tân Phong. Sau khi sự việc xảy ra, chị N có đơn trình báo Công an huyện Bình Xuyên.

Vụ thứ 2: Khoảng 09 giờ ngày 22/10/2019, C đi bộ đến quán Game nhà anh Đỗ Văn Q chơi. Tại đây C gặp và hỏi mượn anh Đỗ Tiến T 01 xe mô tô Yamaha - Exciter màu xanh - đen - bạc, BKS 88G1 - 317.73, sau đó C điều khiển xe mô tô đến nhà T rủ đi sử dụng ma túy. Do không có tiền nên cả hai đi đến cửa hàng sửa chữa điện thoại của anh Nguyễn Anh T, T đưa C chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu vàng do C và T cướp giật được ngày 21/10/2019 để C vào gặp anh T cầm cố được 200.000 đồng, sau đó cả hai đi mua ma túy sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, C điều khiển xe mô tô BKS 88G1 - 317.73 đến khu vực thị trấn Gia Khánh, huyện Bình Xuyên để cướp giật tài sản. Khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày, khi C và T đi đến đoạn đường cách ngã tư thôn Hoàng Oanh, xã Hương Sơn khoảng 50m thì nhìn thấy chị Nguyễn Thị Thủy N điều khiển xe mô tô Honda Wave màu đỏ - đen, BKS 88G1 - 088.01 đi từ quán tạp hóa nhà ông Nguyễn Văn Y, qua ngã tư khoảng 15m thì dừng lại. Lúc này chị N tắt máy, xuống xe đứng bên trái ngang thân xe, mặt hướng vào bên phải đường, chị N đặt túi xách tay kẻ ra rô màu nâu trên yên xe, mở túi cất chìa khóa xe máy và lấy điện thoại ra để gọi, C điều khiển xe mô tô đi lên áp sát bên trái chị N, T ngồi sau dùng tay phải giật lấy túi xách của chị N đang để trên yên xe mô tô rồi cả hai bỏ chạy về hướng thị trấn Gia Khánh, sau đó đi đến khu đất trống khu đô thị Nam Vĩnh Yên thuộc Tổ dân phố Đông Hậu, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên thì dừng lại. Cả hai kiểm tra bên trong túi xách có: 01 quyển sổ khám bệnh, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ra vào công ty InterFlex đều mang tên Nguyễn Thị Thủy N, 01 thẻ ATM Ngân hàng ShihanBank mang tên Nguyễn Thị H, 02 ảnh thẻ, 02 chùm chìa khóa, 01 áo dài tay màu đen, 01 váy nỉ màu xám, 01 túi giả da màu nâu, 01 ví giả da màu đỏ bên trong có 600.000 đồng và khoảng 10.000 đồng tiền lẻ, 01 đồng hồ đeo tay. C cầm toàn bộ số tiền, còn túi xách và các tài sản khác cả hai vứt lại bãi cỏ ven đường, rồi cả hai đi đến Phố Chiền, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên mua 200.000 đồng tiền ma túy cùng nhau sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy, C và T đi về quán điện thoại của anh T chuộc lại chiếc điện thoại Huawei hết 200.000 đồng, T cầm chiếc điện thoại này để sử dụng, số tiền còn lại C tiêu sài cá nhân hết.

Quá trình điều tra, C và T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Theo lời khai của C và T, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra tại đoạn đường liên xã Hương Canh đi xã Tân Phong nhưng không phát hiện thu giữ được đồ vật tài sản gì.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ của anh Nguyễn Đức Q 01 xe mô tô SUFAT BKS 88K3 - 1309, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Đỗ Xuân L. Tạm giữ của Bùi Văn T 01 điện thoại Huawei màu vàng, 01 áo sơ mi dài tay màu tím than kẻ ô vuông, 01 quần ngố màu xanh, 01 đôi dép màu xanh. Tạm giữ của anh Đỗ Tiến T 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS 88G1 - 317.73, 01 đăng ký xe mang tên Đỗ Văn T. Tạm giữ của Nguyễn Huy C: 01 đôi dép màu đen đã cũ. Tạm giữ của ông Nguyễn Văn Y 01 thẻ nhớ 32GB.

Theo lời khai nhận của C và T, ngày 23/10/2019 Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã tiến hành kiểm tra, thu giữ tại khu đất trống đang thi công ở khu đô thị Nam Vĩnh Yên các tài sản gồm: 01 túi xách giả da màu nâu kích thước 40x30cm dày 10cm, 01 quyển sổ khám bệnh, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô, 01 thẻ bảo hiểm xe máy, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ra vào công ty InterFlex đều mang tên Nguyễn Thị Thủy N, 01 thẻ ATM Ngân hàng ShihanBank mang tên Nguyễn Thị H, 02 ảnh thẻ, 02 chùm chìa khóa, 01 áo dài tay màu đen, 01 váy nỉ màu xám, 01 ví giả da màu đỏ.

Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên có văn bản yêu cầu Hội đồng định giá tài sản đối với: 01 điện thoại di động Huawei màu vàng, 01 chiếc túi xách màu đen có dây đeo bằng kim loại, kích thước khoảng 20 x 10cm. 01 túi xách giả da màu nâu - vàng, kẻ ca rô kích thước (40 x 30 x 10)cm, 01 ví giả da màu đỏ, kích thước (20 x 10 x 3)cm, 01 đồng hồ đeo tay màu đen, quai bằng da, mặt tròn màu trắng.

Tại Kết luận định giá số 108 ngày 04/11/2019, Hội đồng định giá tài sản kết luận: Chiếc điện thoại Huawei có giá trị 260.000 đồng. Tại Kết luận định giá số 107 ngày 28/11/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Bình Xuyên xác định: 01 túi xách giả da màu nâu - vàng, kẻ ca rô kích thước (40 x 30 x 10)cm, 01 ví giả da màu đỏ, kích thước (20 x 10 x 3)cm do đã cũ, giá trị định giá: 0 đồng:

Tại Công văn số 07 ngày 11/11/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Bình Xuyên từ chối định giá 01 chiếc túi xách màu đen có dây đeo bằng kim loại, kích thước khoảng 20 x 10cm với lý do tài sản không thu giữ được, bị hại không cung cấp được hình ảnh của tang vật, các giấy tờ liên quan đến việc mua bán và giá trị ban đầu của tài sản. Tại Công văn số 07 ngày 11/11/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Bình Xuyên từ chối định giá 01 đồng hồ đeo tay màu đen, quai bằng da, mặt tròn màu trắng với lý do tài sản không thu giữ được, bị hại không cung cấp được hình ảnh của tang vật, các giấy tờ liên quan đến việc mua bán và giá trị ban đầu của tài sản.

Về trách nhiệm dân sự và vật chứng:

Ngày 28/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho chị Phùng Thị N 01 điện thoại di động Huawei màu vàng đã qua sử dụng. Sau khi sự việc xảy ra bà Lưu Thị H là mẹ C và bà Lưu Thị H là mẹ T cùng nhau đã bồi thường cho chị N số tiền 250.000 đồng và bồi thường cho chị N 610.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản và được bồi thường chị N và chị N không có yêu cầu, đề nghị gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho T và C. Đối với số tiền 250.000 đồng và 610.000 đồng bà Hòa và bà H bỏ ra bồi thường giúp cho T và C, bà H và bà H không yêu cầu gì đối với T và C.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 88K3 - 1309 mà T và C đã sử dụng để cướp giật tài sản, quá trình điều tra đã làm rõ là xe của anh Nguyễn Đức Q, anh Q có quan hệ là người thuê T làm thợ mộc và đã cho T mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên ngày 10/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại anh Nguyễn Đức Q 01 xe mô tô SUFAT BKS 88K3 – 1309 cùng 01 đăng ký xe mô tô, nhận lại tài sản anh Nguyễn Đức Q không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 áo sơ mi dài tay màu tím than kẻ ô vuông, 01 quần ngố màu xanh, 01 đôi dép màu xanh xác định là tài sản của T mặc trên người. Quá trình điều tra, T xác định không còn giá trị, đề nghị không nhận lại số tài sản này.

Ngày 28/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Thủy N 01 túi xách giả da màu nâu kẻ ca rô, 01 ví giả da màu đỏ, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ra vào công ty InterFlex, 01 quyển sổ khám bệnh, 02 ảnh thẻ, 01 thẻ ATM Ngân hàng ShihanBank, 02 chùm chìa khóa, 01 áo dài tay màu đen, 01 váy nỉ màu xám, 01 thẻ bảo hiểm xe máy. Sau khi sự việc xảy ra bà Lưu Thị H là mẹ C và bà Lưu Thị H là mẹ T đã bồi thường cho chị N số tiền 610.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản và được bồi thường, chị N không có yêu cầu đề nghị gì và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho T và C. Đối với số tiền 610.000 đồng bà H và bà H bỏ ra bồi thường giúp cho T và C, bà H và bà H không yêu cầu giải quyết.

Đối với chiếc xe mô tô Exciter BKS 88G1 - 317.73 mà T và C đã sử dụng để cướp giật tài sản, quá trình điều tra đã làm rõ là xe của anh Đỗ Tiến T, anh Tùng có quan hệ là bạn chơi game với C, đã cho C mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết C sử dụng làm phương tiện phạm tội nên ngày 17/11/2019, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho anh Đỗ Tiến T: 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS 88G1 - 317.73 cùng 01 đăng ký xe.

Ngày 21/11/2019, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Y 01 thẻ nhớ 32GB, nhận lại tài sản anh Y không có yêu cầu, đề nghị gì.

Đối với đôi dép thu giữ của C xác định là tài sản của C, quá trình điều tra C xác định không còn giá trị, đề nghị không nhận lại.

Quá trình điều tra và tại phiên toà Bùi Văn T và Nguyễn Huy C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 40/CT- VKSBX ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố các bị cáo Bùi Văn T, Nguyễn Huy C về tội “Cướp giật tài sản”, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm như đã truy tố đối với Bùi Văn T, Nguyễn Huy C và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 05 (Năm) năm tù đến 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy C 04(Bốn) năm đến 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng: Bị hại là chị Phùng Thị N, chị Nguyễn Thị Thuỷ N, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Lưu Thị H, bà Lưu Thị H tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra đã khai đầy đủ phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và sự việc xảy ra diễn biến toàn bộ nội dung vụ án phù hợp như với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp với qui định của pháp luật.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Bùi Văn T, Nguyễn Huy C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, các bị cáo khai nhận: Trong 02 ngày 21/10/2019 và ngày 22/10/2019, Bùi Văn T và Nguyễn Huy C đã cùng nhau thực hiện 02 vụ cướp giật tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 16 giờ 30 ngày 21/10/2019, tại đoạn đường thuộc thôn Chợ Nội, xã Tam hợp, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Huy C điều khiển xe mô tô BKS: 88K3-1309 áp sát phía bên phải xe mô tô BKS: 88S3 - 2348 do chị Phùng Thị N điều khiển để Bùi Văn T ngồi sau xe mô tô do C điều khiển giật túi của chị N đang treo tại móc bên phải bụng xe mô tô của chị N sau đó C nhanh chóng tăng ga bỏ chạy. Tổng trị giá tài sản cướp giật được là 510.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ 40 ngày 22/10/2019, tại đoạn đường ngã tư thôn Hoàng Oanh, xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, C điều khiển xe mô tô BKS: 88G1-317.73 áp sát bên trái xe mô tô BKS: 88G1 - 088.01 của chị Nguyễn Thị Thủy N đang dựng ven đường, để T ngồi sau xe mô tô do C điều khiển giật lấy túi xách của chị N đang để trên yên xe mô tô của chị N sau đó C nhanh chóng tăng ga bỏ chạy. Tổng trị giá tài sản cướp giật được là 610.000 đồng.

[3] Xét lời nhận tội của các bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và vật chứng vụ án thu giữ được, kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Bùi Văn T, Nguyễn Huy C đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”; tội danh được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

Description: C:\Users\adminpc\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.png[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến phong trào phòng chống các tệ nạn xã hội ở địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị hại là chị Nguyễn Thị Thủy N và chị Phùng Thị N đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo. Tuy nhiên các bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là phạm tội nhiều lần; bị cáo Bùi Văn T có một tiền sự và nhân thân xấu, bị cáo có vai trò đầu vụ là người khởi xướng, rủ rê và trực tiếp thực hiện tội phạm, bị cáo Nguyễn Huy C có vai trò đồng phạm giúp sức. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù như đề xuất của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Ngày 28/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho chị Phùng Thị N 01 điện thoại di động Huawei màu vàng đã qua sử dụng. Sau khi sự việc xảy ra bà Lưu Thị H là mẹ C và bà Lưu Thị H là mẹ T cùng nhau đã bồi thường cho chị N số tiền 250.000 đồng và bồi thường cho chị N 610.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản và được bồi thường chị N và chị N không có yêu cầu, đề nghị gì và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho T và C. Đối với số tiền 250.000 đồng và 610.000 đồng bà Hòa và bà H đã bồi thường giúp cho T và C, bà H và bà H không yêu cầu gì đối với T và C, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 88K3 - 1309 mà T và C đã sử dụng để cướp giật tài sản, quá trình điều tra đã làm rõ là xe của anh Nguyễn Đức Q, anh Q có quan hệ là người thuê T làm thợ mộc và đã cho T mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên ngày 10/12/2019, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại anh Nguyễn Đức Q 01 xe mô tô SUFAT BKS 88K3 – 1309 cùng 01 đăng ký xe mô tô, nhận lại tài sản anh Nguyễn Đức Q không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 áo sơ mi dài tay màu tím than kẻ ô vuông, 01 quần ngố màu xanh, 01 đôi dép màu xanh xác định là tài sản của T mặc trên người. Quá trình điều tra, T xác định không còn giá trị, đề nghị không nhận lại số tài sản này nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp.

Ngày 28/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Thủy N 01 túi xách giả da màu nâu kẻ ca rô, 01 ví giả da màu đỏ, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ra vào công ty InterFlex, 01 quyển sổ khám bệnh, 02 ảnh thẻ, 01 thẻ ATM Ngân hàng ShihanBank, 02 chùm chìa khóa, 01 áo dài tay màu đen, 01 váy nỉ màu xám, 01 thẻ bảo hiểm xe máy.

Đối với chiếc xe mô tô Exciter BKS 88G1 - 317.73 mà T và C đã sử dụng để cướp giật tài sản, quá trình điều tra đã làm rõ là xe của anh Đỗ Tiến T, anh Tùng có quan hệ là bạn chơi game với C, đã cho C mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết C sử dụng làm phương tiện phạm tội nên ngày 17/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho anh Đỗ Tiến T: 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS 88G1 - 317.73 cùng 01 đăng ký xe. Ngày 21/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Yên 01 thẻ nhớ 32GB, nhận lại tài sản anh Yên không có yêu cầu, đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với đôi dép thu giữ của C xác định là tài sản của C, quá trình điều tra C xác định không còn giá trị, đề nghị không nhận lại tài sản nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp.

[7] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn T, Nguyễn Huy C phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 05 (Năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 23 tháng 10 năm 2019.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy C 04 (Bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 23 tháng 10 năm 2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay màu tím than kẻ ô vuông, 01 quần ngố màu xanh, 01 đôi dép màu xanh, 01 đôi dép màu đen đã cũ.

Tất cả vật chứng và số tiền nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 20 tháng 3 năm 2020.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Bùi Văn T, Nguyễn Huy C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2020/HS-ST ngày 01/06/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:49/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;