TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ - TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 319/2020/ TLST - HNGĐ ngày 07/10/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 13/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2020/QĐST-HNGĐ ngày 02/12/2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đào Thị Lan A, sinh năm: 19xx; ĐKHKTT tại: Tổ xx, khu x, phường O, thành phố P, tỉnh N - Có mặt tại phiên tòa.
Bị đơn: Anh Hoàng Cao T, sinh năm: 19xx; ĐKHKTT tại: Tổ xx, khu x, phường O, thành phố P, tỉnh N - Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, lời tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đào Thị Lan A đều trình bày: Chị và anh Hoàng Cao T kết hôn từ năm 2014, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường O, thành phố Cẩm Phả, kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Trước khi kết hôn anh chị có thời gian tìm hiểu khoảng 04 năm, sau khi kết hôn về sống tại gia đình nhà chồng ở tổ xx, khu x, phường O, thành phố P. Cuộc sống chung của anh chị sau kết hôn chỉ hạnh phúc được hai năm đầu đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách không hợp nhau, anh chị không bàn bạc được việc gì đi đến thống nhất, anh T là người ham chơi, thường xuyên tụ tập bạn bè để uống rượu, thậm chí còn sử dụng cả ma túy, không chịu đi làm để có tiền lo cho gia đình. Khi chị khuyên bảo anh T không thay đổi mà còn đánh đập chị, chị thấy mình không có lỗi gì dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Đến năm 2017 do anh T có hành vi tàng trữ sử dụng ma túy nên bị Tòa án Cẩm Phả xử phạt 02 năm tù, sau khi chấp hành xong án phạt tù anh T cũng không thay đổi tính cách, vẫn không có trách nhiệm với gia đình, một mình chị vẫn phải gánh vác chi tiêu sinh hoạt cho cả gia đình nên mâu thuẫn của anh chị càng trầm trọng hơn, bên cạnh đó anh T còn thường xuyên ghen tuông, nghi ngờ chị có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác mặc dù chị có giải thích nhưng anh T vẫn không tin từ đó vợ chồng chị cãi nhau nhiều hơn, anh T không kìm chế được lại đánh chị. Gia đình hai bên cũng đã khuyên giải cho anh chị nhiều lần nhưng mâu thuẫn vẫn không khắc phục được nên đến tháng 3/2020 chị quyết định sống ly thân với anh T, chị đưa con về gia đình ngoại ở, anh T cũng đến tìm chị để hàn gắn nhưng chị thấy bản chất anh T không thay đổi nên không cho anh T cơ hội về đoàn tụ. Đến nay mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục được nữa, chị không còn tình cảm dành cho anh T nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn để ổn định cuộc sống.
+ Về con chung: Chị và anh Hoàng Cao T có 01 con chung là Hoàng Nhật M, sinh ngày xx/x/20xx, từ khi sống ly thân chị đã đưa con chung về sống cùng, anh T cũng không quan tâm đến con, không có việc làm và thu nhập để lo cho con nên khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Được nuôi dưỡng con chung chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con, hiện nay chị làm nhân viên tại Công ty cổ phần BOT Biên Cương, thu nhập bình quân là 7.000.000 đồng/tháng nên đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung. Anh T được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
+ Về tài sản chung: Chị và anh T tự thỏa thuận nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Công nợ chung: Không có.
* Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn - anh Hoàng Cao T nhiều lần nhưng anh T cố tình vắng mặt nên không lấy được lời khai của anh T, anh T không có quan điểm gì về quan hệ hôn nhân, về con chung cũng như tài sản và công nợ chung.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả có ý kiến cho rằng Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Xác định đúng quan hệ tranh chấp và áp dụng các quy định của pháp luật giải quyết vụ án chính xác. Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đào Thị Lan A, chị A được ly hôn với anh Hoàng Cao T; Chị A được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Hoàng Nhật Minh, anh T không phải cấp dưỡng cho con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Đào Thị Lan A yêu cầu xin ly hôn với anh Hoàng Cao T hiện cư trú trên địa bàn thành phố Cẩm Phả nên Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả thụ lý giải quyết với quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn- anh Hoàng Cao T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do, sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tống đạt hợp lệ cho anh T nhưng anh T cố tình không tham gia tố tụng theo quy định và cũng không có người đại diện tham gia tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
* Về quan hệ hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa chị Đào Thị Lan A và anh Hoàng Cao T là hôn nhân hợp pháp, anh chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện từ năm 2014, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường O, thành phố Cẩm Phả. Sau kết hôn anh chị về sống tại gia đình nhà chồng ở tổ xx, khu x, phường O, thành phố P. Cuộc sống chung của anh chị sau kết hôn chỉ hạnh phúc được hai năm đầu đến năm 2016 thì đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị A trình bày là do tính cách anh chị không hợp nhau, anh T là người ham chơi, thường xuyên tụ tập bạn bè để uống rượu thậm chí anh T còn sử dụng ma túy, không chịu làm ăn để có kinh tế lo cho gia đình. Năm 2017 anh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên bị Tòa án Cẩm Phả xử phạt 02 năm tù giam, phải đi chấp hành án nhưng sau khi ra trại anh T không thay đổi nên mâu thuẫn của anh chị ngày càng trầm trọng. Bản thân anh T khi được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng cũng không đến để tham gia tố tụng, chứng tỏ anh T cũng không thiện chí hoặc trách nhiệm trong việc giải quyết mâu thuẫn, không có biện pháp tích cực để vợ chồng về đoàn tụ nên chị A xin ly hôn là hoàn toàn có căn cứ. Mâu thuẫn của chị A và anh T cũng phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân của anh chị tại nơi cư trú.
Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị A và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A đối với anh T.
* Về con chung: Chị A và anh T có 01 con chung là Hoàng Nhật M, sinh ngày xx/9/2014, từ khi sống ly thân con chung của anh chị đã sống cùng chị A, chị A có quan điểm đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị có việc làm và thu nhập ổn định, có sự giúp đỡ của gia đình nhà ngoại nên đảm bảo được việc nuôi dưỡng con chung cho đến tuổi thành niên. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án anh T cũng không có quan điểm gì về vấn đề nuôi dưỡng con chung. Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử thấy cần thiết giao con chung là Hoàng Nhật M cho chị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp và cũng đảm bảo được các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, việc học tập, môi trường sống của con chung của anh chị.
Do chị A không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con nên anh T không phải cấp dưỡng cho con chung, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
* Về tài sản chung: Chị A và anh T tự thỏa thuận chia nên không đề nghị Tòa án giải quyết; Công nợ chung: Không có.
[3] Về án phí: Chị Đào Thị Lan A phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 28, 35, 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 271 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đào Thị Lan A và anh Hoàng Cao T.
2. Về con chung: Giao con chung Hoàng Nhật M, sinh ngày xx/x/20xx cho chị Đào Thị Lan A có quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Hoàng Cao T không phải cấp dưỡng cho con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Đào Thị Lan A phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp ngày 05/10/2020 theo biên lai số: 00054xx tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Báo cho biết: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 49/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về