Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý: 178/2020/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 5 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 16 tháng 7 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 43/2020/QDST-HNGĐ, ngày 28/7/2020 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hồng Nh , sinh năm: 1999 Nơi cư trú: Số 151, đường số 9, thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Trịnh Văn T , sinh năm: 1994 HKTT: Ấp Tân Phong, xã H, huyện C, tỉnh Cà Mau.

Nơi cư trú: Số 151, đường số 9, thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa: nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 31/7/2020, bị đơn vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/5/2020, biên bản tự khai, biên bản không hòa giải được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Nh trình bày: Chị và anh T tự nguyện tìm hiểu được 8 tháng thì về chung sống cùng nhau, đến năm 2017 thì anh chị đăng ký kết hôn tại UBND xã Đông Hà.

Sau khi kết hôn thì chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên chơi bài bạc, khiến chị và gia đình phải rất nhiều lần đi trả nợ thay cho anh T . Khi xẩy ra mâu thuẫn thì chị và cha mẹ chị đã khuyên nhủ anh T nhiều lần nhưng anh T không thay đổi sửa chữa. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T , chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

-Về con chung: anh chị có 01 con chung:

+ Trịnh Như Ý, sinh ngày 27/6/2016.

Hiện nay, con A đang ở cùng chị, khi ly hôn chị yêu cầu được quyền nuôi con, chị không yêu cầu anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết Về phía bị đơn: Kể từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T không chấp hành nên Tòa án không thể lấy lời khai, cũng như tiến hành hòa giải được.

Theo các biên bản xác minh của Tòa án cũng như các tài liệu có trong hồ sơ, trong thời gian anh T và chị Nh chung sống với nhau thì giữa hai người thường xuyên sảy ra mâu thuẫn. Vì vậy anh chị đã ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay nhưng vẫn chung sống cùng nhà số 151, đường số 9, thôn Nam Hà, xã Đông Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Ý kiến của kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương sự: Thẩm phán đã thụ lý hồ sơ, xác định đúng quan hệ pháp luật, lập và gửi các văn bản đúng quy định. Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử đúng trình tự luật định. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt là đúng pháp luật, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Vì vậy mà HĐXX, xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy hôn nhân của anh, chị mâu thuẫn thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu có tiếp tục kéo dài cũng không đem lại lợi ích cho anh, chị và cháu. Vì vậy Hội đồng xét xử nên cho ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung, cháu hiện nay đang ở với chị Nh . Chị Nh có sức khỏe tốt, có công việc và thu nhập ổn định, mặt khác chị Nh có nguyện vọng được nuôi con.Vì vậy Hội đồng xét xử nên giao con cho chị Nh được quyền trực tiếp trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không phải xem xét giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của nguyên đơn có trong hồ sơ và kết quả xác minh của Tòa án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện đề ngày 05/5/2020 Tòa án xác định đây là vụ án: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận theo quy định tại khoản 1, Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]Về thủ tục tố tụng: Kể từ ngày Tòa án nhân dân huyện Đức Linh thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã thực hiện đúng quy định về việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự được quy định tại chương X Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Nguyễn Thị Hồng Nh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 31/7/2020. Hội đồng xét xử xét thấy rằng nội dung và hình thức của đơn đề nghị xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của pháp luật và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt nguyên đơn là đúng pháp luật. Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ và có đủ căn cứ chứng minh vào thời gian này, bị đơn có mặt tại số nhà 151, đường số 9, thôn Nam Hà, xã Đông Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Anh T biết chị Nh khởi kiện ly hôn nhưng anh cố tình không có mặt theo sự triệu tập của Tòa. Chứng tỏ anh T đã tự từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình. Vì vậy Tòa án đưa vụ án ra xét xử là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị đơn Trịnh Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật.

[4]Về hôn nhân: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh và anh Trịnh Văn T có đăng ký kết hôn vào ngày 06/6/2017 tại UBND xã Đông Hà. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Căn cứ vào quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử khẳng định đây là sự thật không cần phải chứng minh.

Tuy nhiên, sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là anh chị tính tình không hợp, thường xuyên cãi vã, làm cho tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Thấy rằng, lời khai của chị Nh là hoàn toàn phù hợp với thực tế và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Nay chị Nh xác định không còn tình cảm với anh T nữa và cương quyết ly hôn. Tòa án cũng đã kiên trì triệu tập anh T nhiều lần nhằm mục đích hòa giải cho vợ chồng anh đoàn tụ nhưng anh T không chấp hành. Thấy rằng anh T không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này nữa nên đã bỏ mặc cho chị Nh khởi kiện ly hôn. Cho thấy hôn nhân của anh, chị mâu thuẫn thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu có tiếp tục kéo dài cũng không đem lại lợi ích cho anh, chị và cháu Ý. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nh là đúng theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình.

[5]Về con chung: Xét thấy chị Nh là người có sức khỏe, có tư cách đạo đức tốt, có nghề nghiệp thu nhập ổn định. Cháu Trịnh Như Ý, sinh ngày 27/6/2016 hiện đã trên 36 tháng tuổi và là cháu gái. Chị Nh lại có nguyện vọng trực tiếp được yêu cầu nuôi con. Vì vậy Hội xét xử quyết định giao con A cho chị Nh được quyền trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quyền thăm nom con: Để bảo đảm quyền lợi cho các cháu được phát triển tốt về thể chất và tinh thần, nhận được tình yêu thương đầy đủ từ cả cha lẫn mẹ, cần xem xét tuyên quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau khi chị Nh ly hôn với anh T . Anh Trịnh Văn T phải chấp hành đúng quy định về việc thăm nom con tại khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[6]Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nh không yêu cầu anh Trịnh Văn T phải cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy Hội đồng xét xử không phải xem xét trong bản án này.

[7]Về tài sản chung và nợ chung: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không phải xem xét trong bản án này.

[8]Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ nghị quyết về án phí và lệ phí của Ủy ban thường vụ Quốc Hội số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 thì chị Nh là người khởi kiện ly hôn nên chị Nh phải chịu toàn bộ án phí ly hôn theo luật định.

[9] Xét ý kiến của Kiểm Sát Viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật. Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp vợi nội dung vụ án.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự của năm 2015; Áp dụng Điều 51, 56; khoản 2, Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 luật Thi hành án dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội , ngày 30/12/2016.Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng Nh :

1/ Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh ly hôn anh Trịnh Văn T .

2/ Về con chung:

Giao cho chị Nguyễn Thị Hồng Nh được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con: Trịnh Như A, sinh ngày 27/6/2016 Anh Trịnh Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Chị Nguyễn Thị Hồng Nh trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Trịnh Văn T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

3/Về án phí DSST: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh phải chịu 300.000đồng án phí DSST, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nh đã nộp là 300.000đồng theo biên lai số 0003614 ngày 11/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh. Chị Nh đã nộp đủ án phí DSST.

4/ Về quyền kháng cáo: Báo cho nguyên đơn biết, bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:49/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;