Bản án 49/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 45/2019/TLST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 đối với:

1- Bị cáo Nông Văn H; tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 16 tháng 02 năm 1985 tại huyện Hạ Lang, Cao Bằng;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: xóm B, xã M, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng;

Quc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 02/12;

Chức vụ Đoàn thể, Đảng phái: Không có;

Con ông Sầm Văn HH (đã chết), con bà Nông Thị T, sinh năm 1955;

Vợ: Ngọc Thị T2, sinh năm 1985; Con: Có một con nhỏ sinh năm 2014;

Anh, chị, em ruột: Bị cáo có ba anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình;

Tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hòa An từ ngày 08/8/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngọc Thị T2, sinh năm 1985 tòa.

Đa chỉ: xóm B, xã M, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Có mặt tại phiên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 08/8/2019, Tổ công tác của Đội CSĐT tội phạm Kinh tế - Ma túy Công an huyện Hòa An đang làm nhiệm vụ tại xóm Khuổi Hân, xã Ngũ Lão, huyện Hòa An, phát hiện một nam thanh niên đang đứng cạnh chiếc xe mô tô BKS 11G1-014.72 có nhiều biểu hiện vi phạm pháp luật. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra nam thanh niên khai nhận là Nông Văn H, sinh năm 1985, trú tại xóm B, xã M, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Tiến hành kiểm tra người của Nông Văn H, phát hiện bên trong chiếc ví da màu nâu mà H đang cầm trên tay có 02 gói nhỏ chất bột màu trắng, H khai nhận là Heroine do H mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đưa Nông Văn H và các vật chứng có liên quan về Công an huyện Hòa An để điều tra làm rõ. Cùng ngày Cơ quan CSĐT phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành cân xác định khối lượng chất một màu trắng mà H khai nhận là Heroine, kết quả: Toàn bộ chất bột màu trắng có khối lượng là 1,3728 gam (Một phẩy ba bẩy hai tám gam). Đồng thời ngày 09/8/2019 tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nông Văn H nhưng không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến hành vi phạm pháp của Nông Văn H.

Tại kết luận giám định số 226/GĐMT ngày 22/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định vụ án Nông Văn H tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang ngày 08/8/2019 tại Khuổi Hân, Ngũ Lão, Hòa An, Cao Bằng là ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra, Nông Văn H khai nhận về nguồn gốc số heroine bị bắt quả tang ngày 08/8/2019 là do H đi mua với một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ, mua tại xóm L, xã M, huyện Hạ Lang với số tiền 1.000.000 đồng, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi có được số heroine, H điều khiển xe mô tô đi ra thành phố Cao Bằng để chăm vợ ốm điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh, trong quá trình di chuyển đến khu vực thuộc địa phận xóm Khuổi Hân, xã Ngũ Lão, huyện Hòa An thì dừng lại với ý định lấy ma túy ra sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Cáo trạng số 45/Ctr - VKSHA ngày 28/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Nông Văn H ra trước Tòa án nhân dân huyện Hòa An tỉnh Cao Bừng để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa sơ thẩm: Bị cáo khai nhận bản thân đã sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2015, thời điểm trước khi bị bắt bị cáo sử dụng mỗi ngày khoảng một lần, lý do mà bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy là do bị cáo bị đau nhức xương khớp nên mới mua về sử dụng. Bị cáo khai việc bị cáo đi mua ma túy về là để sử dụng cho bản thân và chưa được bán cho ai, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và bản Cáo trạng đã truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, không oan và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên qua chị Ngọc Thị T2 trình bày: giữa chị và bị cáo có mỗi quan hệ vợ chồng kết hôn vào năm 2013, việc chồng chị nghiện ma túy trước thời điểm bị bắt thì chị không biết. Trong vụ án này bị cáo bị thu giữ một chiếc xe máy BKS 11G1-014.72 đứng tên chủ sở hữu là Nông Văn H nhưng đây là tài sản chung của vợ chồng, về nguồn gốc chiếc xe máy này là vào cuối năm 2013 hai vợ chồng chị đi làm thuê kiếm tiền để mua về làm phương tiện phục vụ sinh hoạt chung của cả gia đình. Bình thường cả chị là người hay sử dụng chiếc xe máy này để đi lại đưa đón con đi học. Sự việc ngày 08/8/2019 anh H sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện để đi mua ma túy về sử dụng thì chị không biết nên chị yêu cầu được trả lại chiếc xe máy để làm phương tiện đi lại.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện VKSND huyện Hòa An trình bày quan điểm luận tội giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 14 tháng đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “Tang vật vụ án Nông Văn H, sinh năm 1985, trú tại B, M, Hạ Lang, Cao Bằng; hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang ngày 08/8/2019 tại Khuổi Hân, Ngũ Lão, Hòa An, Cao Bằng”.

Đề nghị trả lại cho bị cáo số tiền 550.000 đồng đựng trong một phong bì thư được niêm phong; 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu GIGI, màu đỏ đen và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh đen.

Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave S màu trắng nâu xám, BKS 11G1-014.72, đã qua sử dụng, số khung 171855, số máy 1088426, Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nông Văn H vì đây là phương tiện đi lại chính của gia đình.

Tại phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Ngọc Thị T không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay. Lời khai phù hợp với biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu giữ trong quá trình điều tra, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 08/8/2019 tại khu vực xóm Khuổi Hân, xã Ngũ Lão, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, bị cáo Nông Văn H đang có hành vi tàng trữ 02 gói ma túy là heroine có trọng lượng (khối lượng) 1,3728 gam thì bị lực lượng Công an huyện Hòa An bắt quả tang.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, qua giao tiếp xã hội bị cáo phải nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội; trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ma túy là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe con người, làm băng hoại nhiều giá trị chuẩn mực đạo đức trong đời sống nhân dân nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, coi thường pháp luật, bị cáo vẫn bất chấp thực hiện. Tại phiên tòa, việc bị cáo khai do bản thân không được học hành đến nơi, đến chốn, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn không được tiếp xúc với các phương tiện T tin đại chúng để biết được tác hại của ma túy và là vật nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ nhưng xét thấy bản thân bị cáo đã sử dụng trái phép từ năm 2015 nên bị cáo bắt buộc phải biết được ma túy tác hại như thế nào do vậy ý kiến của bị cáo tại phiên tòa là không có căn cứ. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An truy tố là có căn cứ.

[3]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói chung và địa bàn huyện Hòa An nói riêng, tệ nạn ma túy đang gia tăng. Bị cáo là thanh niên có sức khoẻ, đang ở độ tuổi lao động để tạo ra của cải vật chất cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng chỉ vì ham chơi, sa vào nghiện hút ma tuý để thoã mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung đồng thời tạo điều kiện để bị cáo cách ly với chất ma tuý. Đồng thời đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đáp ứng được công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà Đảng và Nhà nước đề ra

[5]. Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, kinh tế khó khăn và không sở hữu tài sản gì lớn. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong chứa đựng Heroine; trả lại bị cáo Nông Văn H 02 điện thoại di động và số tiền 550.000 đồng. Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave S màu trắng nâu xám, BKS 11G1-014.72, đã qua sử dụng, xét đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo cùng góp tiền để mua nhằm mục đích làm phương tiện đi lại phục vụ cuộc sống hằng ngày. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện để đi mua ma túy về sử dụng chị T2 không biết và cũng không phải là phương tiện chính để bị cáo phạm tội nên xét thấy cần trả lại cho chủ sở hữu là hợp lý, do đó đề nghị của Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy: Cơ quan cảnh sát điều tra không xác định được người đàn ông bán cho bị cáo số ma túy nêu trên, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9]. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Các Điều 106, 136, 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố:

1. Bị cáo Nông Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nông Văn H 15 (Mười năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ, ngày 08/8/2019.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong chứa đựng Heroine.

Trả lại bị cáo Nông Văn H 02 điện thoại di động gồm một chiếc điện thoại nhãn hiệu GIGI màu đỏ đen và một chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO màu xanh, số tiền 550.000 đồng và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave S màu trắng nâu xám, BKS 11G1-014.72, số khung RLHJC5268DY171855, số máy JC52E1088426, xe đã qua sử dụng.

(Vật chứng hiện nay đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 05 ngày 30/10/2019)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nông Văn H phải chịu án hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;