Bản án 49/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 18 tháng 7 năm 2019 tại hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 07 tháng 01 năm 1987 tại phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ 2, phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Tạo và bà Nguyễn Thị Dung; vợ, con: Chưa có; tiền án: Tại bản án số 46/2016/HSST ngày 21 tháng 7 năm 2016 Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27 tháng 4 năm 2018; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 102/HSST ngày 17/9/2002 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 3 năm về tội “Phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”, thời điểm phạm tội Tuân 15 tuổi, chấp hành xong bản án ngày 6 tháng 6 năm 2003. Tại bản án số 160/HSST ngày 16 tháng 6 năm 2008 Tòa án thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 12 tháng 8 năm 2009. Ngày 29 tháng 6 năm 2010 Chủ tịch UBND thị xã Phúc Yên ra Quyết định áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc. Ngày 30 tháng 7 năm 2010 trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc có quyết định tạm thời đưa Tuân ra khỏi trung tâm để tham gia tố tụng. Tại bản án số 02/HSST ngày 12 tháng 11 năm 2010 Tòa án huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, chấp hành xong bản án ngày 30 tháng 7 năm 2012. Ngày 21 tháng 6 năm 2013 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Phúc Yên áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với Đặng Văn T (đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc), chấp hành xong vào ngày 21 tháng 6 năm 2015; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07 tháng 3 năm 2019 đến nay “có mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Nguyễn Nghĩa T, sinh năm 1988, trú tại: Tổ dân phố Độc Lập, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh phúc “vắng mặt”.

Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1966; trú tại: Tổ 2, phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Quang: Anh Nguyễn Khánh L, sinh năm 1988; trú tại: Tổ 1, phường Tị, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đặng Văn T nghiện ma túy từ năm 2006; khoảng 10 giờ ngày 06 tháng 3 năm 2019 Tuân đi từ nhà đến khu vực bến xe Phúc Yên thuộc phường Hùng Vương, thành phố Phúc Yên gặp và mua 01 gói ma túy đá của một nam giới khoảng 40 tuổi với giá 1.000.000đồng. Sau khi mua ma túy, Tuân sử dụng hết một phần, phần còn lại cất giấu trên người với mục đích ai mua thì bán. Khoảng 09 giờ ngày 07 tháng 3 năm 2019 Nguyễn Nghĩa T gọi điện thoại cho Tuân hỏi mua một gói ma túy với giá 500.000đồng để sử dụng, Tuân đồng ý và hẹn gặp T tại ngã 3 Đầm Cả, thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên. Sau đó, Tuân lấy gói ma túy trên người chia làm hai phần, một phần Tuân gói vào túi nilon để vào túi quần phía sau bên phải, phần còn lại đúc vào mẩu ống hút màu hồng dùng bật lửa hơ dán hai đầu rồi gói vào mảnh giấy bạc cầm ở tay rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 88H1-010.80 đi đến chỗ hẹn gặp T. Khi đến chỗ hẹn thấy T đứng ở ven đường, Tuân đến gặp T, như đã thỏa thuận, T đưa Tuân 500.000đồng để mua ma túy, Tuân cầm tiền cất vào ví rồi đưa ma túy cho T nhưng T chưa kịp cầm thì bị bắt quả tang. Khi bị bắt, Tuân sợ nên đã làm rơi gói ma túy xuống đất cạnh vị trí Tuân và T đang đứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 mẩu ống hút nhựa màu hồng kính thước dài 4cm bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá, bọc bên ngoài bằng mảnh giấy bạc, tại nền đất cạnh vị trí Tuân và T đứng (Tuân khai đó là ma túy đá Tuân bán cho T), được niêm phong ký hiệu A1; 01 gói nilon màu trắng kích thước 04 cm x 03cm bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá thu giữ tại túi quần phía sau bên phải Tuân đang mặc trên người, được niêm phong ký hiệu A2; 01 ví giả da màu đen bên trong có 1.500.000đồng (Tuân khai có một tờ tiền mệnh giá 500.000đồng là tiền T vừa trả để mua ma túy), 01 điện thoại di động OPPO màu đen đã cũ và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Waves biển kiểm soát: 88H1-010.80 đã cũ của Tuân; 01 điện thoại di động Masstel màu xanh đen đã cũ của Nguyễn Nghĩa T.

Ngày 07 tháng 03 năm 2019, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Đặng Văn T tại tổ 2, phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc, kết quả: Không thu giữ gì.

Tại Kết luận giám định số 372/KLĐG ngày 11 tháng 03 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự kết luận:

"1. Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine ….Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,3200g (không phảy ba hai không không gam, không kể bao bì). Khối lượng chất ma túy Methamphetamine có trong 0,3200g mẫu là 0,2440g (không phảy hai bốn bốn không gam)".

2. Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine ….Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,3946g (không phảy ba chín bốn sáu gam, không kể bao bì). Khối lượng chất ma túy Methamphetamine có trong 0,3946g mẫu là 0,2993 g (không phảy hai chín chín ba gam)".

Hoàn lại sau giám định gồm A1= 0,1756 gam mẫu, A2=0,2222 gam mẫu và toàn bộ bao gói.

Tại Cáo trạng số 37/CT-VKSBX ngày 11 tháng 6 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố Đặng Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như Cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt Đặng Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07 tháng 3 năm 2019. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Đồng thời đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra Nguyễn Nghĩa T trình bày và xác nhận lời khai của bị cáo về việc hai người mua bán ma túy với nhau tại ven đường lộ 2A thuộc địa phận tổ dân phố Cửa Đồng, thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, là đúng.

Ông Phạm Văn Q cho Đặng Văn T mượn xe mô tô biển kiểm soát 88H1- 010.80 nhưng không biết Tuân sử dụng xe để đi mua ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử cho xin lại xe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 07 tháng 3 năm 2019 tại ven đường lộ 2A thuộc địa phận tổ dân phố Cửa Đồng, thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, Đặng Văn T đang bán trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,2440g cho Nguyễn Nghĩa T với giá 500.000 đồng, Tuân đã nhận tiền và đưa ma túy cho T nhưng T chưa kịp cầm thì bị bắt quả tang. Ngoài ra còn thu giữ trên người của Tuân 0,2993 gam Methamphetamine, Tuân cất giấu để bán cho các con nghiện. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Đặng Văn T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự .

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất gây nghiện nguy hiểm được nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý với các quy định rất nghiêm ngặt. Bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội nên cần xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu và có 01 tiền án về “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mình, bất chấp quy định của pháp luật tiếp tục mua bán trái phép chất ma túy để kiếm lời và lấy ma túy sử dụng cho bản thân chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật. Nhưng, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ về hành vi bị cáo đã thực hiện như mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo như biên bản xác minh giữa Công an huyện Bình Xuyên và tổ dân phố phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc thì Đặng Văn T là người nghiện ma túy, không nghề nghiệp, không có tài sản riêng, hiện không có nơi ở riêng mà sống cùng nhà với bố mẹ đẻ là ông Tạo, bà Dung. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Tuân như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về nguồn gốc số ma túy Tuân bán cho T ngày 07 tháng 3 năm 2019 và số ma túy thu trên người Tuân, do Tuân không biết họ tên và địa chỉ của người nam giới bán ma túy, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được danh tính nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với hành vi mua ma túy của Nguyễn Nghĩa T với mục đích để sử dụng, khi bị bắt quả tang T chưa nhận được ma túy, bản thân T khai mua ma túy để sử dụng cho bản thân nên Công an huyện Bình Xuyên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T.

[7] Vật chứng của vụ án: Đối với A1= 0,1756 gam, A2=0,2222 gam Methamphetamine mẫu cùng toàn bộ bao gói Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 500.000đồng là tiền của T trả cho Tuân để mua ma túy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động OPPO màu đen đã cũ của Đặng Văn T và 01 điện thoại di động Masstel màu xanh đen đã cũ của Nguyễn Nghĩa T quá trình điều tra xác định là công cụ phương tiện liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu bán phát mại nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 ví giả da màu đen và số tiền 1.000.000 đồng qua điều tra xác định là của Đặng Văn T không sử dụng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo Tuân nhưng tạm giữ tiền để đảm bảo thi hành án.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave biển kiểm soát: 88H1 - 010.80, Tuân làm phương tiện đi bán ma túy. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô là của ông Phạm Văn Q cho Tuân mượn, việc Tuân sử dụng xe để đi bán ma túy ông Quang không biết nên trả lại chiếc xe mô tô cho ông Quang.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 07 tháng 3 năm 2019.

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hu A1= 0,1756 gam, A2=0,2222 gam Methamphetamine mẫu cùng toàn bộ bao gói Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định.

Tịch thu, phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động OPPO màu đen đã cũ của Đặng Văn T và 01 điện thoại di động Masstel màu xanh đen đã cũ của Nguyễn Nghĩa T.

Trả lại cho bị cáo Đặng Văn T 1.000.000đồng (Một triệu đồng) và 01 ví giả da nhưng tạm giữ tiền để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho ông Phạm Văn Q 01 xe mô tô biển kiểm soát 88H1-010.80.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Bình Xuyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 10 tháng 6 năm 2019).

Về án phí: Buộc bị cáo Đặng Văn T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;