TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 49/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2017/HSST, ngày 16 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Trần Viết M (Tên gọi khác: Trần Ngọc M), Sinh ngày: 30/9/1977; Nơi ĐKHKTT: Phường T, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không nghề. Con ông: Trần Ngọc Đ (sinh năm 1952);
Con bà: Đồng Thị D (sinh năm 1949);
Cùng trú tại: Tổ 8b, phường T, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên. Vợ: Long Thị Tố Q (sinh năm 1976);
Con: 02 con: Con lớn sinh năm 2000; con nhỏ sinh năm 2006.
Tiền án: Ngày 20/6/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giam từ ngày 05/12/2016, hiện bị cáo đang thụ hình tại Trại giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa: Luật sư A - Văn phòng luật sư A - Đoàn Luật sư tỉnhCao Bằng (Bào chữa cho bị cáo theo quy định của pháp luật).
Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo Trần Viết M bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 18 giờ 15 phút ngày 13/06/2016 Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cao Bằng phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ tại Km 257 + 400, Quốc lộ 3 thuộc xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng, tiến hành dừng kiểm tra xe khách BKS 20B – 001xx chạy hướng Thái Nguyên - Cao Bằng do Phạm Đức B (Sinh năm 1972) trú tại: Tổ 03, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng điều khiển. Qua kiểm tra phát hiện ở sàn xe dưới chỗ ngồi của Đỗ Mạnh H (Trú tại: Tổ 24, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) và Nguyễn Trung S (Trú tại: Tổ 01, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) 01 gói Heroine có trọng lượng 36,74 gam và một gói ni lon màu trắng bên trong chứa 06 viên Methamphetamine có trọng lượng 0,56 gam, Tổ công tác đã tiến hành niêm phong toàn bộ vật chứng thu được.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng đã tiến hành tạm giữ S, H và khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra. Quá trình điều tra xác định được: Chiều ngày 12/6/2016 Nguyễn Trung S gọi điện cho Trần Viết M (Trú tại: Tổ 8b, phường T, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên) nói là sẽ xuống thành phố N mua Heroine, sau đó S rủ H cùng đi. Khoảng 20 giờ cùng ngày S, H đi xe khách xuống thành phố N, đến thành phố N khoảng 3 giờ sáng, M ra đón và cả ba cùng vào một nhà nghỉ tại ngã ba K, thành phố N. Đến sáng, S hỏi M: “Một cây Heroine ở đây giá bao nhiêu”, M trả lời: “Một cây giá 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng)”, S bảo cứ lấy về một cây. Sau đó M đi xe máy đến bến xe khách thành phố N gặp một người đàn ông đi xe ôm khoảng 40 - 50 tuổi không rõ họ tên, địa chỉ mua một cây Heroine với số tiền là 32.000.000 đồng và được người đó cho thêm 10 viên hồng phiến. Do chưa có tiền trả, M đặt xe máy ở đó và đem số Heroine về nhà nghỉ, để gói Heroine lên bàn, lấy ra một ít cho S và H dùng thử, thử xong H nói với S là “hàng được”. M cho S thêm 06 viên Hồng phiến, S gói toàn bộ số ma túy trên bỏ vào bao thuốc lá ngựa và lấy 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) đưa cho M, còn 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) S điện thoại về cho mẹ là Vũ Thị L (Trú tại: Phố V, phường H, thành phố C) chuyển tiền vào tài khoản của Trần Thị Hồng H (Trú tại: Phường P, thành phố N). Sau khi M nhận đủ tiền thì S, H đi xe khách về Cao Bằng, đến Km 257 + 400 Quốc lộ 3 đoạn thuộc xóm B, huyện H, tỉnh Cao Bằng thì bị Công an tỉnh Cao Bằng phát hiện bắt giữ.
Ngày 15/6/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng đã tiến hành mở niêm phong cân xác định trọng lượng chất bột màu trắng và 06 viên nén hình tròn màu hồng trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng vụ Nguyễn Trung S (sinh năm 1977) và Đỗ Mạnh H (sinh năm 1990) cùng trú tại phường H, thành phố C, bắt ngày 13/06/2016”: Các cục chất bột màu trắng có trọng lượng tịnh là 36,74 gam và tách lấy mẫu gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng để giám định; 06 viên nén hình tròn màu hồng có trọng lượng là0,56 gam và tách lấy 02 viên gửi Viện khoa học hình sự Bộ Công an để giámđịnh.
Tại kết luận giám định số 96 ngày 05/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng sử dụng mẫu lưu của vụ Nguyễn Trung S và Đỗ Mạnh H để tiến hành giám định, kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng giám định là chất ma túy, loại ma túy: Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 20, Danh mục I Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.
Tại kết luận giám định số 3111 ngày 15/8/2016 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “02 viên nén màu hồng gửi giám định đều có thành phần Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong danh mục II số thứ tự 67 Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP, ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.
Hành vi phạm tội của Nguyễn Trung S và Đỗ Mạnh H đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng đưa ra xét xử và tuyên phạt mỗi bị cáo mức án 15 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bản án đã có hiệu lực pháp luật; hiện nay Nguyễn Trung S đang chấp hành án tại Trại giam Thanh Xuân - Bộ công an; Đỗ Mạnh H đang chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 - Bộ công an.
Còn Trần Viết M, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã rời khỏi địa phương đi làm thuê, đến ngày 05/12/2016 thì bị Công an huyện E, tỉnh Thái Nguyên bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và bị Tòa án nhân dân huyện E xử phạt 30 tháng tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật, hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an.
Ngày 26/4/2017, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Cao Bằng nhận được Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/12/2016 đối với Trần Viết M. Căn cứ vào biên bản trên, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Cao Bằng ra Quyết định đình nã; Quyết định phục hồi điều tra vụ án; Quyết định phục hồi điều tra bị can đối với Trần Viết M để điều tra về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày 13/6/2016.
Bản Cáo trạng số 31/KSĐT-MT ngày 15 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đã truy tố Trần Viết M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Trong phần tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Trần Viết M về tội mua bán trái phép chất ma tuý. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Viết M 16 đến 17 năm tù. Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù của bản án số: 22/2017/HSST ngày 14/3/2017 của Toà án nhân dân huyện E, tỉnh Thái Nguyên để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án.
Quá trình điều tra, bị cáo Trần Viết M khai nhận: Bị cáo quen biết và chơi với Nguyễn Trung S từ nhiều năm trước, thỉnh thoảng vẫn liên lạc với nhau. Ngày 13/6/2016 S và H xuống thành phố N mục đích để mua ma túy. S trao đổi với M và nhất trí mua 01 cây Heroine với giá 32.000.000đ (Ba mươi hai triệu đồng). Sau khi thống nhất, M một mình đi xe máy đến Bến xe thành phố N gặp một người đàn ông ngoài 40 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ) làm nghề xe ôm để hỏi mua 01 cây Heroine với giá 32.000.000đ (Ba mươi hai triệu đồng). Người đàn ông đó đi khoảng 30 phút thì quay lại đưa cho M một gói Heroine bên ngoài quấn băng dính màu đen và 01 gói có 10 viên ma túy tổng hợp. M nhận ma túy rồi đặt lại chiếc xe máy (do chưa có tiền trả), sau đó đi xe taxi về nhà nghỉ đưa số Heroine cho S và H (còn 06 viên ma túy tổng hợp M cho thêm để S về dùng thử). S kiểm tra hàng, nhất trí mua và trả trước cho M 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng). Số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) còn lại, đến khoảng 10 giờ cùng ngày M nhận được qua tài khoản của bà Trần Thị Hồng H do bà Vũ Thị L (Mẹ đẻ của S) chuyển cho M (vì M không có số tài khoản nên M đã hỏi mượn tài khoản của bà Trần Thị Hồng H). Sau đó M đi ra Bến xe thành phố N trả 32.000.000đ (Ba mươi hai triệu đồng) cho người đàn ông đã bán Heroine, lấy lại chiếc xe máy đã đặt rồi quay về nhà nghỉ cùng S, H đi ăn cơm trưa, ăn xong S và H đón xe khách ở ngã ba K để về Cao Bằng, còn M đi trả thẻ ATM cho Trần Thị Hồng H. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, M gọi điện cho S xem đã về đến Cao Bằng chưa, nhưng không liên lạc được, cũng không biết S và H đã bị bắt.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Viết M trình bày luận cứ bào chữa xác nhận lời khai của Trần Viết M phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; nhất trí với kết luận của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, mẹ của bị cáo là bà Đồng Thị D được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xem xét cho bị cáo được hưởng mức án khởi điểm khung hình phạt là 15 năm tù.
Khi được nói lời sau cùng, bị cáo Trần Viết M tỏ thái độ ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa và bị cáo.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Trần Viết M đã thừa nhận nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng phản ánh đúng thực tế hành vi phạm tội của bị cáo và truy tố bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và vật chứng thu được, phù hợp với lời khai của Nguyễn Trung S và Đỗ Mạnh H là đối tượng mua ma túy với bị cáo về thời gian, địa điểm, cách thức trao đổi mua bán Heroine; biên bản phạm tội quả tang thu giữ tang vật đối với Nguyễn Trung S và Đỗ Mạnh H.
Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xét lời khai của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm hôm nay Hội đồng xét xử nhận định, có đủ căn cứ chứng minh: Ngày 12/6/2016 Nguyễn Trung S rủ Đỗ Mạnh H đi xe khách xuống thành phố N gặp M mục đích là mua ma túy về sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện. Đến sáng ngày 13/6/2016 S cùng H đến thành phố N, S đã nhờ M đi mua Heroine với số tiền là 32.000.000đ (Ba mươi hai triệu đồng) và được M cho thêm 06 viên nén màu hồng có chứa thành phần Methamphetamine.
Ngày 15/6/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng đã tiến hành mở niêm phong cân xác định trọng lượng chất bột màu trắng và 06 viên nén hình tròn màu hồng trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng vụ Nguyễn Trung S (sinh năm 1977) và Đỗ Mạnh H (sinh năm 1990) cùng trú tại phường H, thành phố C, bắt ngày 13/06/2016”: Các cục chất bột màu trắng có trọng lượng tịnh là 36,74 gam và tách lấy mẫu gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng để giám định; 06 viên nén hình tròn màu hồng có trọng lượng là0,56 gam và tách lấy 02 viên gửi Viện khoa học hình sự Bộ Công an để giámđịnh.
Tại kết luận giám định số 96 ngày 05/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng sử dụng mẫu lưu của vụ Nguyễn Trung S và Đỗ Mạnh H để tiến hành giám định, kết luận: “Chất bột màu trắng giám định là chất ma túy, loại ma túy: Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 20, Danh mục I Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.
Tại kết luận giám định số 3111 ngày 15/8/2016 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “02 viên nén màu hồng gửi giám định đều có thành phần Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong danh mục II số thứ tự 67Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP, ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.
Như vậy Trần Viết M phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán36,74 gam Heroine. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng truy tố Trần Viết M về tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm đến hoạt động quản lý Nhà nước về chất ma tuý, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhưng vẫn bất chấp quy định của pháp luật, lén lút tiến hành mua bán trái phép chất ma túy. Trong vụ án bị cáo là người giữ vai trò chính, là người cung cấp Heroine cho S và H. Vì vậy cần xử lý nghiêm khắc bị cáo để làm gương cho người khác, đồng thời phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý ở địa phương.
Xét về nhân thân, bị cáo xuất thân từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, không có nghề nghiệp ổn định, sớm mắc tệ nạn xã hội nghiện ma túy; bị cáo có 01 tiền án: Ngày 25/02/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi chấp hành xong hình phạt trở về địa phương, chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội mua bán trái phépchất ma túy cho Nguyễn Trung S và Đỗ Mạnh H vào ngày 12/6/2016. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều48 Bộ luật hình sự.
Sau khi thực hiện hành vi trên bị cáo bỏ đi khỏi địa phương ngày14/03/2017 bị Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tùvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần phải xem xét đến việc bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, mẹ bị cáo bà Đồng Thị D được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để cân nhắc mức án đối với bị cáo.
Hiện nay Trần Viết M đang thụ hình tại Trại giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an theo: Bản án số 22/2017/HSST ngày 14/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và Quyết định Thi hành án hình phạt tù số 17/2017/QĐ-CA ngày 18/4/2017 nên khi quyết định hình phạt cần quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử sau đó tổng hợp hình phạt của cả hai bản án theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng về tội danh, mức án, Hội đồng xét xử xét thấy Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đã căn cứ vào tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để đưa ra quan điểm, đề nghị đúng theo quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.
Đối với đề nghị của người bào chữa xin cho bị cáo Trần Viết M được hưởng mức án khởi điểm của khung hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người trực tiếp liên lạc, thống nhất việc mua bán trái phép chất ma túy, chủ động tìm nguồn ma túy để cung cấp cho S và H, bị cáo là người giữ vai trò chính trong vụ án này; nhân thân bị cáo là xấu nên không có căn cứ để chấp nhận. Xét thấy bị cáo Trần Viết M có hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo lao động tự do không có công việc ổn định. Do vậy, xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Trần Viết M.
Đối với 06 viên nén màu hồng có thành phần Methamphetamine có trọng lượng 0,56 gam, do không đủ trọng lượng để xử lý về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với M.
Đối với Trần Thị Hồng H là người cho M mượn số tài khoản và Vũ Thị L là người chuyển tiền, quá trình điều tra xác định được H, L không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của M và S nên không xử lý hình sự đối với H và L.
Về tang vật vụ án: Đã được xử lý trong vụ án Nguyễn Trung S, Đỗ Mạnh H. Ngoài ra, bị cáo còn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Viết M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194; Điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Viết M 16 (mười sáu) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù của bản án số: 22/2017/HSST ngày 14/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Thái Nguyên. Buộc bị cáo Trần Viết M phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là: 18 (mười tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt 05/12/2016.
3. Về án phí: Bị cáo Trần Viết M phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 49/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 49/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về