Bản án 49/2017/HS-ST ngày 27/06/2017 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 49/2017/HS-ST NGÀY  27/06/2017 VỀ TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Hôm nay, ngày 27 tháng 6 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy,  tỉnh  Nam  Định  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số 52/2016/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2016, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2017/HSST - QĐ ngày 14 tháng 6 năm 2017, đối với bị cáo: Họ và tên: Phạm Thị Q - Sinh năm 1974. Nơi sinh: Xóm 8, xã H, huyện G, tỉnh Nam Định. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 8 xã H, huyện G, tỉnh Nam Định.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn C (đã chết) và bà Lê Thị T; Chồng là: Trần Văn N; Có 02 con, lớn 26 tuổi, nhỏ 21 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06-01-2016 đến ngày 15-01-2017 được tại ngoại; Sau đó bị bắt tạm giam từ ngày 23-3-2016 đến ngày 22-6-2016 được thay thế biện pháp ngăn chặn khác. Bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 06/01/2016, lực lượng Cảnh sát điều tra thuộc Đội Cảnh sát điều tra về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Giao Thủy đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm 8 xã H, huyện G, tỉnh Nam Định phát hiện Phạm Thị Q xách một bao tải màu trắng từ cửa hàng tạp hóa nhà Q đi qua đường sang lán của nhà Q dùng để bán nước mía và rửa xe cạnh bờ sông đối diện với cửa hàng tạp hóa nhà Q. Cùng lúc này, Nguyễn Xuân H đến trước cửa hàng tạp hóa nhà Q, H và Q vào trong nhà Q sau đó cả hai đi sang lán cạnh bờ sông. Thấy Q và H có biểu hiện mua bán pháo nổ, lực lượng công an đến lán bán nước mía yêu cầu kiểm tra chiếc bao tải do Q vừa xách sang lúc trước, phát hiện bên trong có 06 túi nilong màu đen, trong đó có 04 túi mỗi túi chứa 01 cuộn dạng bánh pháo nổ cuộn tròn và 02 túi bên trong mỗi túi chứa 10 vỉ dạng bánh pháo nổ có nhiều quả nhỏ liên kết với nhau. Lực lượng công an đã yêu cầu Q và H đưa chiếc bao tải bên trong có chứa số pháo trên về Ủy ban nhân dân xã H lập biên bản bắt giữ người có hành vi vi phạm pháp quả tang, thu giữ toàn bộ số pháo niêm phong theo quy định, ký hiệu M. Ngoài ra còn thu giữ của Q 01 điện thoại màu trắng mặt sau có chữ Mastel đã qua sử dụng có số thuê bao 0166445589.

Thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đối với nhà ở của Q, lực lượng Công an đã phát hiện lập biên bản thu giữ 05 vị trí khác nhau tại nhà ở của Q số pháo cụ thể là:

1. Tại góc bếp thổi rạ, thu giữ 02 vỉ dạng bánh pháo nổ, được niêm phong ký hiệu M1.

2. Tại vị trí trước cửa bếp thổi rạ tường rào bên tay trái, thu giữ 01 túi nilon màu đen bên trong có chứa 40 vỉ dạng bánh pháo nổ, được niêm phong ký hiệu M2.

3. Tại nhà kho, thu giữ 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 cuộn dạng bánh pháo nổ cuộn tròn, được niêm phong ký hiệu M3.

4.  Tại gầm cầu thang bên trong nhà Q, thu giữ 01 túi nilon màu đen chứa 112 quả pháo diêm hình trụ tròn, được niêm phong ký hiệu M4.

5. Tại gầm giường gian nhà đầu tiên, thu giữ 01 túi nilon màu đen bên trong chứa 03 hộp hình trụ lục giác gồm 07 ống nhỏ liên kết với nhau và 10 hộp hình chữ nhật, trong mỗi hộp chứa 20 quả pháo diêm hình trụ tròn được niêm phong ký hiệu M5.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị Q không thừa nhận  hành vi của mình như đãnêu trên. Bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đã tiến hành trưng cầu giám định đối với toàn bộ số pháo đã thu giữ tại lán bán nước mía và số pháo thu giữ khi khám xét khẩn cấp nhà của Q.

Tại bản kết luận giám định số 40.KTHS ngày 07/01/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã giám định và kết luận:

5.1. Mẫu có ký hiệu M gồm:

- Mẫu có ký hiệu A1 là pháo nổ (thuộc loại bánh pháo nổ). Tổng trọng lượng là 4,937 kg.

- Mẫu có ký hiệu A2 là pháo nổ (thuộc loại bánh pháo nổ). Tổng trọng lượng là 4,238 kg.

- Tổng trọng lượng mẫu có ký hiệu M là 9,175 kg.

5.2.Mẫu có ký hiệu M1 là pháo nổ (thuộc loại bánh pháo nổ). Tổng trọng lượng là 0,419 kg.

5.3. Mẫu có ký hiệu M2 là pháo nổ (thuộc loại bánh pháo nổ). Tổng trọng lượng là 8,411 kg.

5.4. Mẫu có ký hiệu M3 là pháo nổ (thuộc loại bánh pháo nổ). Tổng trọng lượng là 1,263 kg.

5.5. Mẫu có ký hiệu M4 là pháo nổ (thuộc loại pháo quẹt nổ). Tổng trọng lượng là 0,197 kg.

5.6. Mẫu có ký hiệu M5 gồm:

- Mẫu có ký hiệu B1 là pháo nổ (thuộc loại pháo quẹt nổ). Tổng trọng lượng là 0,357 kg.

- Mẫu có ký hiệu B2 là pháo nổ (thuộc loại giàn pháo hoa nổ). Tổng trọng lượng là 1, 084 kg.

Tổng trọng lượng mẫu có ký hiệu M5 là 1,441 kg.

5.7. Tổng trọng lượng các loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M, M1, M2, M3, M4, M5 là 20,906 kg. Tại bản kết luận giám định bổ sung số 83/KTHS ngày 15/01/2016 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã giám định và kết luận:

5.1. Các loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M không cùng loại với các loại pháo của mẫu ký hiệu M4, M5.

5.2. Loại pháo nổ của mẫu ký hiệu A1 cùng loại với loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M3.

5.3. Loại pháo nổ của mẫu ký hiệu A2 cùng loại với loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M1, M2.

Bản cáo trạng số: 59/CTR ngày 24 - 6- 2016 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Phạm Thị Q về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Mặc dù tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Phạm Thị Q không thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép đối với số pháo thu giữ, nhưng căn cứ vào kết quả điều tra, lời khai của người làm chứng và vật chứng của vụ án đã đủ căn cứ khẳng định ngày 06/01/2016 bị cáo Phạm Thị Q đã cất giấu 20.906 kg pháo nổ các loại trong nhà mình, điều đó 1 lần nữa khẳng định VKS nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo theo điểm d khoản 1 mục III và điểm 2.3 mục III thông tư liên tịch số: 06/2008/TTLT/BCA - VKSNDTC - TANDTC là có căn cứ. Tuy vậy căn cứ điểm 2 công văn số: 91/TANDTC - PC ngày 28 - 4 - 2017 của Tòa án nhân dân tối cao xét xử đối với hành vi tàng trữ pháo nổ trong nội địa. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án, trường hợp này bị cáo không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước vì lý do chính sách pháp luật thay đổi.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân bị cáo không tàng trữ pháo nổ, đề nghị HĐXX xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Theo kết luận số 40/KTHS ngày 07/01/2016 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu có ký hiệu M (gồm ký hiệu A1, A2),M1, M2, M3, M4, M5 (gồm ký hiệu B1, B2) là phảo nổ. Tổng trọng lượng các loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M, M1, M2, M3, M4, M5 là 20,906 kg.

Theo  kết luận giám định bổ sung số 83/KTHS ngày 15/01/2016 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Các loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M không cùng loại với các loại pháo của mẫu ký hiệu M4, M5; Loại pháo nổ của mẫu ký hiệu A1 cùng loại với loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M3; Loại pháo nổ của mẫu ký hiệu A2 cùng loại với loại pháo nổ của mẫu ký hiệu M1, M2.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã thu thập được và số lượng pháo đã thu giữ trong nhà và lán bán nước mía của Q đã có đủ căn cứ xác định Phạm Thị Q đã có hành vi cất giấu 20,906 kg pháo nổ để sử dụng trong dịp tết Nguyên đán Bính thân năm 2016. Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy đã áp dụng khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại thông tư liên tịch số: 06/2008/TTLT/BCA - VKSNDTC - TANDTC và quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ - CP ngày 12-6-2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện thì “các loại pháo” thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh và đã truy tố bị cáo Phạm Thị Q về tội “tàng trữ hàng cấm”.

Nhưng theo quy định của Luật đầu tư số 67/2014/QH13 (Luật đầu tư năm 2014) thì “kinh doanh các loại pháo” thuộc Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Căn cứ Công văn số 91/TANDTC - PC ngày 28 - 4 - 2017 của Tòa án nhân dân tối cao, kể từ ngày 01-7-2015 đến ngày 01-01-2017, không xác định pháo nổ là hàng cấm. Do đó hành vi tàng trữ pháo nổ của bị cáo không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án. Bị cáo không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

Chuyển hồ sơ vụ án cùng toàn bộ vật chứng đã thu giữ (vật chứng hiện đang lưu giữ tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện G) cho Công an huyện G. Đề nghị Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo Phạm Thị Q về hành vi tàng trữ pháo nổ và xử lý vật chứng theo thẩm quyền.

Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 2 31 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 63 Luật xử lý vi phạm hành chính.

- Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Q không phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”

- Đình chỉ vụ án thụ lý số: 52/2016/HSST ngày 27/6/2016.

- Chuyển hồ sơ vụ án cùng toàn bộ vật chứng đã thu giữ (vật chứng hiện đang lưu giữ tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện G) cho Công an huyện G. Đề nghị Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo Phạm Thị Q về hành vi tàng trữ pháo nổ và xử lý vật chứng theo thẩm quyền.

2. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

986
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 49/2017/HS-ST ngày 27/06/2017 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:49/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;