TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HOÁ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 49/2017/HSST NGÀY 19/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 19/12/2017. Tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 51/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên : Hoàng Văn Ch. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 08/5/1985, tại huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Nơi ĐKNKTT: Xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Chỗ ở hiện nay: Xóm ĐM, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: San chí; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 08/12.
Con ông: Lý Văn S. Không xác định được năm sinh; Con bà: Hoàng Thị B.
Sinh năm 1964. Nghề nghiệp: Làm ruộng.
Anh, chị, em ruột: Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ hai.
Họ và tên vợ: Dương Thị N. Sinh năm: 1986. Nghề nghiệp: làm ruộng; Con có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; Hiện cùng trú tại: Xóm ĐM, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Tiền án: Không.
Tiền sự: 01. Tại Quyết định xử phạt hành chính số: 01 ngày 03/4/2017 của Trưởng Công an xã TT, huyện Đ xử phạt Hoàng Văn Ch số tiền 1.000.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, Hoàng Văn Ch chưa chấp hành xong.
Bị cáo tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên toà.
* Người bị hại:
1. Anh Nông Văn Q – Sinh ngày 26/12/1984 ; Trú tại : Xóm TY, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên toà.
2. Anh Lý Văn M – Sinh ngày 04/12/1977 ; Trú tại : Xóm TY, xã TT huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên toà.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
1. Chị Dương Thị N – Sinh năm 1986 ; Trú tại: Xóm ĐM, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do.
2. Chị Dương Thị – Sinh năm 1985; Trú tại: LN, xã TĐ, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do.
* Người làm chứng :
Anh Nông Văn Đ – Sinh ngày 15/05/1990; Trú tại : Xóm TY, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên toà.
NHẬN THẤY
Bị cáo Hoàng Văn Ch bị VKSND huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên truy tố về hành phạm tội như sau:
Hoàng Văn Ch (Sinh năm: 1985, trú tại: xóm ĐM, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên), đã có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Khoảng 12 giờ ngày 08/6/2017, Ch điều khiển xe môtô biển kiểm soát 20M3- 3817 (Xe của chị Dương Thị T, sinh năm: 1985, trú tại: LN, xã TĐ, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên), đi từ nhà lên khu vực đồi cây thuộc xóm TY, xã TT, huyện Đ, mục đích để trộm cắp măng tre mang bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi đi, Ch mang theo 02 chiếc bao tải dứa màu trắng và 01 con dao, loại dao bài có cán bằng gỗ dài 38cm, bản rộng 06cm. Đến 12 giờ 15 phút cùng ngày, Ch đi qua khu vực bụi tre của gia đình anh Nông Văn Q (Sinh năm: 1984, trú tại: xóm TY, xã TT, huyện Đ), thấy có măng tre nên Ch đã dừng xe lại, cầm theo 01 bao tải và con dao đi xuống bụi tre để lấy trộm măng, Ch chặt măng tre cho vào bao tải thì anh Q và anh Lý Văn M (Sinh năm: 1977; ở cùng xóm với anh Q) đi đến, anh Q nói “sao mày lấy măng nhà tao” thì Ch nói “măng nhà mày à”. Thấy vậy, anh Q liền gọi điện thoại báo cho Công an xã TT, huyện Đ, Ch mang bao tải đựng măng tre vừa trộm cắp được của gia đình anh Q lên xe mô tô, nổ máy và đi tiếp vào bên trong đồi, đi được khoảng 150 mét đến bụi tre của gia đình anh Lý Văn M, Ch dừng xe lại cầm theo 01 bao tải và con dao rồi tiếp tục chặt măng tre cho vào bao tải. Sau khi trộm cắp được măng tre của gia đình anh Q và anh M, Ch chở 02 bao tải trên xe môtô để đi tiêu thụ thì bị Công an xã TT, huyện Đ kiểm tra, thu giữ và đưa về trụ sở Công an xã TT, huyện Đ để xử lý.
Cùng ngày, Công an xã TT, huyện Đ tiến hành cân xác định trọng trọng lượng, xác định: 02 bao tải măng tre thu giữ của Ch có tổng trọng lượng 26kg, mỗi bao 13kg. Sau khi cân xác định trọng lượng, Công an xã TT đã trả lại số măng tre trên cho gia đình anh Q và anh M. (BL: 57- 59)
Tại bản kết luận định giá số: 26 ngày 05/07/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Định Hóa kết luận: 26kg măng tre chưa bóc vỏ có giá trị là 208.000đ (Hai trăm linh tám ngàn đồng). (BL: 25- 27)
Vật chứng của vụ án gồm: 26 kg măng tre chưa bóc vỏ; 01 con dao loại dao bài dài 38cm, bản rộng 06cm có cán bằng gỗ; 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu MIKYWAY biển kiểm soát 20M3- 3817 và 02 bao tải dứa màu trắng. Sau khi cân xác định trọng lượng, Công an xã TT đã trả lại số măng tre trên cho gia đình anh Nông Văn Q và Lý Văn M, trả lại cho Hoàng Văn Ch chiếc xe môtô, còn lại 01 con dao và 02 chiếc bao tải dứa màu trắng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Hóa chờ xử lý.
Sau khi nhận lại tài sản, những người bị hại là các anh Lý Văn M và Nông Văn Q, không yêu cầu Hoàng Văn Ch phải bồi thường gì thêm.
Tại cáo trạng số 43 ngày 19/10/2017. Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Hoàng Văn Ch ra trước Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên để xét xử về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên Tòa sơ thẩm ngày hôm nay, bị cáo Hoàng văn Ch đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả. Bị cáo xác định việc truy tố tại bản cáo trạng của VKS đối với bị cáo theo tội danh và điều luật viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, sai.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên Toà phát biểu quan điểm luận tội. Sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ,tính chất, hành vi, hậu quả mà bị cáo đã gây ra, kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn Ch về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn Ch phạm tội: "Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng văn Ch từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
- Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét giải quyết do người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.
- Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao loại dao bài dài 38cm, bản rộng 06cm có cán bằng gỗ và 02 bao tải dứa màu trắng.
- Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn Ch phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.
Phần tranh luận: Bị cáo Ch không tranh luận, bào chữa.
Bị cáo nói lời sau cùng xin HĐXX cho hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn Ch khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo thống nhất, phù hợp với các lời khai cơ quan điều tra; Phù hợp với bản tường trình và lời khai của người bị hại, người là chứng; Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, với kết luận định giá tài sản...và các tài liệu chứng cứ khác Cơ quan điều tra đã thu thập được khách quan có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ xác định: Trong khoảng thời gian từ 12 giờ 15 đến 12 giờ 30 phút ngày 08/6/2017, Hoàng Văn Ch đã có hành vi trộm cắp tài sản là 13 kg (Mười ba kilogam) măng tre của gia đình anh Nông Văn Q, sinh năm 1984, ở xóm TY, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên và 13 kg (Mười ba kilogam) măng tre của gia đình anh Lý Văn M, sinh năm 1977, ở xóm TY, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 26 ngày 05/07/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Định Hóa kết luận: 26kg măng tre chưa bóc vỏ có giá trị là 208.000đ (Hai trăm linh tám ngàn đồng).
Quá trình điều tra, xác định bị cáo Hoàng Văn Ch có một tiền sự, tại Quyết định xử phạt hành chính số 01 ngày 03/4/2017 của Trưởng Công an xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Hoàng Văn Ch số tiền 1.000.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo chưa chấp hành xong.
Do vậy, hành vi trộm cắp tài sản nêu trên của bị cáo Hoàng Văn Ch đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị … dưới hai triệu đồng… hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt…tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm....”
Do đó, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật nhà nước ta bảo vệ, hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo gây hoang mang, lo lắng cho người dân trong việc bảo vệ tài sản của mình và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy cần phải lên một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo mới thỏa đáng, đồng thời mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội
Xét nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, bản thân có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáoCh được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 BLHS là: Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Người phạm tội thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Ch thuộc diện hộ nghèo theo quy định của chính phủ nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại trong vụ án là Anh Nông Văn Q và anh Lý Văn M đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Q và anh M không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại.
Quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Chị Dương Thị N và chị Dương Thị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường đối với chiếc xe mô tô 20M3-3817, Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét giải quyết tiếp.
Về vật chứng của vụ án:
Đối với 13 kg măng tre do bị cáo trộm cắp của gia đình anh Nông Văn Q đã trả lại cho gia đình anh Q nên không đặt ra giải quyết tiếp.
Đối với 13 kg măng tre do bị cáo trộm cắp của gia đình anh Lý Văn M đã trả lại cho gia đình anh M nên không đặt ra giải quyết tiếp.
Đối với 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu MIKYWAY biển kiểm soát 20M3-3817 của chị Dương Thị T cho chị Dương Thị N mượn làm phương tiện đi lại, khi sử dụng chiếc xe làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Ch tự ý lấy xe đi, không nói cho chị Dương Thị N và chị Dương Thị T biết sử dụng chiếc xe để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, Công an xã TT đã hoàn trả lại cho bị cáo. Xét thấy việc trả lại chiếc xe cho bị cáo Ch của Công an xã TT, huyện Đ là không đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên qua xác minh lấy lời khai của chị T thấy rằng, chị T vẫn cho chị N mượn chiếc xe làm phương tiện đi lại nên không đặt ra vấn đề xử lý tiếp đối với chiếc xe.
Đối với 01 con dao loại dao bài dài 38cm, bản rộng 06cm có cán bằng gỗ và 02 bao tải dứa màu trắng bị cáo dùng làm công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.
Về án phí : Bị cáo Ch phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa về việc áp dụng các quy định của pháp luật để đề nghị HĐXX áp dụng về hình phạt chính, về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự và án phí đối với bị cáo là có căn cứ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố:
Bị cáo Hoàng Văn Ch phạm tội: "Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Ch 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 138 BLHS đối với bị cáo.
2. Về dân sự: Không đặt ra vấn đề giải quyết tiếp do hai người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật hình sự,
Tịch thu tiêu hủy 01 con dao loại dao bài dài 38cm, bản rộng 06cm có cán bằng gỗ và 02 bao tải dứa màu trắng.
Tình trạng vật chứng như tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/10/2017 giữa Công an huyện Định Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Hóa.
4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Hoàng Văn Ch phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người bị hại Nông Văn Q và Lý Văn M, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Dương Thị T và chị Dương Thị N, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 49/2017/HSST ngày 19/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 49/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về