Bản án 491/2020/HNGĐ-ST ngày 18/11/2020 về ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 491/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 18 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 386/2020/TLST-HNGĐ ngày 01/10/2020về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/11/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn Tr, sinh năm 1977; ĐKHKTT và cư trú: Thôn TP, xã ĐP, C, Hà Nội. Hiện trú tại: Số 40/52, đường T, ấp 5, xã ĐT, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

2. Bị đơn: Chị Đinh Thị M, sinh năm 1978; ĐKHKTT và cư trú: Thôn TP, xã ĐP, C, Hà Nội. Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Có mặt: Anh Tr, chị M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 21/8/2020, ý kiến tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – anh Lê Văn Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đinh Thị M tự nguyện kêt hôn vao ngay 18/5/2000 tại UBND xã YP (nay là UBND thị trấn YT), huyện YM, tỉnh Ninh Bình, khi đó vợ chồng anh đang sinh sống trong Miền Nam. Năm 2001, vợ chồng anh đã có mâu thuẫn do chị M đã không chu đáo tiếp đón các em của anh khi đến chơi. Năm 2006 thì vợ chồng anh về quê ĐP sinh sống; trong thời gian sinh sống ở quê, vợ chồng cũng mâu thuẫn do làm ăn thua lỗ, chị M còn tự ý bỏ nhà đi. Đến tháng 7/2013 anh quay lại Miền Nam để làm ăn kinh tế. Trong thời gian anh sinh sống trong Miền Nam thì tình cảm vợ chồng vẫn lạnh nhạt, khi cần liên hệ về nhà thì anh gọi điện thoại cho các con, chứ không gọi cho chị M, do anh không có số điện thoại của chị M. Đến nay anh xác định không còn tình cảm với chị M, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với chị M.

Về con chung: Anh và chị M có ba con chung là: Lê Tiến Th, sinh ngày 17/4/2002; Lê Thu Th, sinh ngày 14/10/2006 và Lê Tiến Đ, sinh ngày 28/01/2004.

Nếu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn thì các con có nguyện vọng ở với ai anh cũng chấp nhận. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Cháu Th đã thành niên; cháu Đ đã nghỉ học, đi làm thuê, có thu nhập; cháu Th vẫn đang đi học; bản thân anh lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên nếu chị M nuôi con chung thì anh cũng không cấp dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – Chị Đinh Thị M trình bày: Chị và anh Lê Văn Tr tự nguyện kêt hôn vao ngay 18/5/2000 tại UBND xã YP (nay là UBND thị trấn YT), huyện YM, tỉnh Ninh Bình.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống tại miền Nam, đến khi cháu Đ được vài tháng tuổi thì vợ chồng chị về quê ĐP sinh sống do anh Tr là con trưởng. Đến năm 2013, anh Tr lại vào Miền Nam làm ăn. Trong suốt thời gian anh Tr đi làm ăn xa, nhưng không gửi tiền về cho chị để nuôi các con, theo chị nguyên nhân là do anh Tr có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ tên Ph ở trong đó, bởi chính chị Ph đã quỳ xin lỗi chị khi chị vào trong đó kiểm tra thông tin. Lúc đó chị đã muốn ở lại trong đó với anh Tr để cùng nhau làm ăn, nhưng anh Tr đã không đồng ý, nên chị và các con vẫn phải sinh sống ở ĐP từ đó đến nay. Trong thời gian gần đây anh Tr có gửi tiền về đóng học cho con, nhưng lại không đưa cho chị, mà gửi nhà chú của anh Tr để đóng học dần cho các con.

Anh Tr từ khi đi miền Nam làm ăn thỉnh thoảng mới về nhà và mỗi lần về thì ở rất ít ngày lại đi luôn, chỉ có thời gian này anh Tr làm thủ tục xin ly hôn mới ở nhà lâu. Giữa chị và mẹ anh Tr không có gì mâu thuẫn lớn.

Theo chị, vợ chồng chị không có mâu thuẫn gì lớn; hiện anh Tr vẫn có quan hệ chung sống vợ chồng với chị Ph và anh Tr nghe mẹ, nên dẫn đến muốn ly hôn với chị. Quan điểm của chị không đồng ý ly hôn với anh Tr.

Về con chung: Chị và anh Tr có ba con chung là: Lê Tiến Th, sinh ngày 17/4/2002; Lê Thu Th, sinh ngày 14/10/2006 và Lê Tiến Đ, sinh ngày 28/01/2004.

Hiện nay Cháu Th đã thành niên và đang đi học tại Trường Cao Đẳng; cháu Đ đã nghỉ học; cháu Th vẫn đang đi học. Chị không đồng ý ly hôn, nên chị không có nguyện vọng gì về con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Cháu Lê Thu Th, sinh ngày 14/10/2006 và Lê Tiến Đ, sinh ngày 28/01/2004:

Đều có nguyện vọng ở với chị M, nếu bố mẹ ly hôn.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn – anh Tr vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và thừa nhận hiện anh đang sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh là do anh tự nguyện đi làm kinh tế, chứ không phải vì vợ chồng mâu thuẫn mà sống ly thân.

- Bị đơn – chị M: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Tr.

- Anh Lê Tiến Th (con chung của anh Tr, chị M) trình bày: Lý do bố anh xin ly hôn với mẹ anh là bố anh đã có người phụ nữ khác ở trong Miền Nam. Anh không muốn bố mẹ anh ly hôn.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi xét xử, Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn, Bị đơn đã chấp hành đầy đủ và đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Tr với chị M, do mẫu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Anh Lê Văn Tr có đơn khơi kiên đối với chị Đinh Thị M vê viêc xin ly hôn, nuôi con sau ly hôn nên xác định đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về "Ly hôn, nuôi con sau ly hôn" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn–Chị M có hộ khẩu thường trú và cư trú tại xã ĐP, huyện C, Thành phố Hà Nội, nên Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Văn Tr và chị Đinh Thị M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào n gày 18/5/2000 tại UBND xã YP (nay là UBND thị trấn YT), huyện YM, tỉnh Ninh Bình, tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình là hôn nhân hợp pháp.

Anh Tr xin ly hôn chị M với lý do do cách đối nhân xử thế của chị M với gia đình nhà anh không chu đáo, dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn không nói chuyện với nhau. Còn chị M cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chị cũng không có mâu thuẫn gì với mẹ anh Tr; anh Tr muốn ly hôn với chị là do anh Tr có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, không quan tâm đến mẹ con chị sinh sống ở quê và nghe tác động từ phía mẹ anh Tr.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Tr thì thấy: Cuộc sống gia đình của anh Tr, chị M không phải ly thân nhau, mà do anh Tr đi làm ăn xa, anh Tr thỉnh thoảng về thăm vợ con, nhưng lại có những sự cãi vã, đánh chửi chị M chỉ vì cách cư xử của chị M chưa chu đáo với gia đình anh Tr, như vậy bất hòa giữa anh Tr và chị M là còn có sự hiểu lầm nhau, mâu thuẫn hôn nhân giữa anh Tr và chị M chưa đến mức trầm trọng phải ly hôn. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp yêu cầu xin ly hôn của anh Tr

[2.2] Về con chung: Do yêu cầu xin ly hôn của anh Tr không được chấp nhận, nên vấn đề con chung không được xem xét giải quyết [2.4] Về tài sản chung, công nợ chung: Do Hội đồng xét xử không chấp yêu cầu xin ly hôn của anh Tr và anh Tr, chị M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]Về án phí: Anh Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Văn Tr đối với chị Đinh Thị M.

2. Về án phí: Anh Lê Văn Tr phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn; được đối trừ với 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí anh Tr đã nộp theo “Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án” số AA/2018/0010055tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chương Mỹ ngày 01/10/2020.

Nguyên đơn, Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 491/2020/HNGĐ-ST ngày 18/11/2020 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:491/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;