Bản án 486/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, chia tài sản chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 486/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG, CHIA TÀI SẢN CHUNG

Ngày 24 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thm công khai vụ án thụ lý số: 396/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Quốc H, sinh năm: 1990 (có mặt).

Nơi cư trú: Tổ 5, p Vĩnh L, xã Vĩnh N, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Chị Mai Thị U, sinh năm: 1993 (có mặt).

Nơi cư trú: Tổ 12, Ấp Vĩnh T, xã Vĩnh N, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai ngày 31/8/2020 và tại phiên tòa sơ thm nguyên đơn anh Lê Quốc H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị U chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2015, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 24/03/2016 tại UBND xã V, huyện C, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến cuối năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, anh và chị U không tìm được tiếng nói chung, gia đình luôn bất hòa, mâu thuẫn giữa hai gia đình ngày càng trầm trọng. Chị U bỏ về gia đình cha mẹ sống, anh đã cho chị U cơ hội nhung chị U vẫn không thay đổi. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu đuợc ly hôn với chị Mai Thị U.

Về con chung: Có 01 đứa con chung tên là Lê Mai Trí D, sinh ngày 04/10/2016. Hiện con chung đang sống cùng chị U. Anh đồng ý để cháu Lê Mai Trí D cho chị U nuôi và đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Vàng cưới có 4 chỉ vàng 24kra. Năm 2016, khi chị U bỏ nhà đi anh bị té xe chấn thương sọ não người nhà của anh bán số vàng trên để chữa trị cho anh nên không còn, đám cưới bên vợ có cho vợ 01 chiếc kiềng nhưng anh đã bán được 5.000.000 đồng để làm đám đầy tháng và mua tã sữa cho con, sợi dây chuyền là tại đám đầy tháng con do chú chị U cho khoảng 7 phân, khi bị té xe anh đã bán cùng với 04 chỉ vàng không nhớ bán bao nhiêu. Sau khi ly hôn, anh đồng ý giao lại cho chị U 01 tủ áo bằng nhôm, còn lại số vàng đã bán hết để lo bệnh, nhưng anh đồng ý giao lại cho chị 02 chỉ vàng 24kra, 7 phân vàng 18kra cho con, riêng chiếc kiềng anh đã bán được 5.000.000 đồng để làm đám đầy tháng và mua tã, sữa cho con không còn nên không đồng ý giao lại.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 29/10/2020, biên bản hòa giải ngày 30/10/2020 và ngày 26/11/2020 và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn chị Mai Thị U trình bày:

Về hôn nhân: Chị thống nhất với nội dung trình bày của anh Hùng về thời gian kết hôn và điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không còn hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống anh Hùng thường bỏ nhà đi không lo cho vợ con nên vợ chồng sống không hạnh phúc, không thể hàn gắn được tình cảm với nhau. Nay chị đồng ý ly hôn với anh H.

Về con chung: Có 01 đứa con chung tên là Lê Mai Trí D, sinh ngày 04/10/2016. Hiện con chung đang sống cùng chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Có 04 chỉ vàng 24kra, 01 chiếc kiềng do người em cho trong ngày cưới không rõ trọng lượng nhưng lúc mua hơn 7.000.000 đồng, nay anh H khai đã bán 5.000.000 đồng chị đồng ý nhưng yêu cầu anh H phải trả lại cho chị vì đây là tài sản của em chị cho riêng chị, 01 sợi dây chuyền 18kra lúc đầy tháng do chú chị cho 7 phân vàng 18kra và 01 tủ quần áo bằng nhôm gia đình chị cho lúc về nhà chồng, hiện do anh H giữ, chị yêu cầu anh H phải trả lại toàn bộ số tài sản này cho chị để chị nuôi con.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn sơ thẩm những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và tuân thủ đúng quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Mai Quốc H; chị U được tiếp tục nuôi dưng con chung, anh H cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật; Về tài sản anh H phải giao lại cho chị U được sở hữu 2 chỉ vàng 24kra, 01 tủ áo bằng nhôm, 2.500.000 đồng tiền chiếc kiềng đã bán, 7 phân vàng 18kra, anh H và chị U phải chịu án phí hôn nhân gia đình và án phí chia tài sản theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về hôn nhân: Anh Lê Quốc H và chị Mai Thị U chung sống với nhau vào năm 2015 hôn nhân xây dựng trên cơ sở tự nguyện đến ngày 24 tháng 3 năm 2016 hai bên có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Do vậy, hôn nhân của anh, chị được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét về mối quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử nhận thấy: Anh H và chị U chung sống hạnh phúc không lâu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo anh H trình bày là do bất đồng trong cuộc sống, hai bên không có tiếng nói chung từ đó mâu thuẫn giữa hai bên gia đình ngày càng trầm trọng, chị U bỏ về nhà cha mẹ vợ sống và vợ chồng ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay. Về phía chị U cũng trình bày do tính tình không hp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh H thường bỏ đi không lo cho vợ con nên vợ chồng không có hạnh phúc nên chị cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy, suốt thời gian ly thân hai bên không có thiện chí hàn gắn quan hệ tình cảm, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, khả năng hàn gắn là không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nghĩ nên công nhận thuận tình ly hôn cho hai bên là hoàn toàn phù hợp.

[2] Về con chung: Anh H và chị U có 1 con chung là cháu Lê Mai Trí D sinh ngày 04/10/2016, từ khi ly thân đến nay cháu D sống với chị U, sau khi ly hôn anh H đồng ý để chị U được tiếp tục nuôi cháu D. Do đó nghĩ nên để chị U được tiếp tục nuôi dưỡng cháu D là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung chị U có yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật ½ mức lương tối thiểu cấp cho đến khi cháu D tròn 18 tuổi được anh H đồng ý. Do đó nghĩ nên công nhận sự thỏa thuận này của 2 bên là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về tài sản chung: Tài sản chung anh H và chị U thống nhất có 4 chỉ vàng cưới 24kra và 01 chiếc kiềng do người em của chị U cho trong ngày cưới không rõ trọng lượng chị U khai lúc mua hơn 7.000.000 đồng, 01 tủ áo bng nhôm do gia đình chị U cho khi về nhà chồng và 7 phân vàng 18kra lúc đám đầy tháng con chú chị U cho cháu D. Tại phiên tòa hôm nay, anh H đồng ý giao lại cho cho chị U 01 tủ áo bằng nhôm, chia 2 số vàng cưới cho chị U là 02 chỉ vàng 24kra, trả lại 07 phân vàng 18 kra cho con anh do chị U nhận. Xét thấy sự thỏa thuận giao lại tài sản của anh H là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật, do đó nghĩ nên công nhận là phù hp.

Tài sản hai bên còn tranh chấp: 01 chiếc kiềng hai bên đều không rõ trọng lượng, chị U khai lúc mua em chị nói khoảng hơn 7.000.000đồng anh H cho rằng anh đã bán được 5.000.000 đồng làm đám đầy tháng và mua tã, sữa cho con không còn, nên không đồng ý giao lại, tại phiên tòa chị U thống nhất giá trị chiếc kiềng là 5.000.000 đồng nhưng yêu cầu anh H giao lại cho chị vì đây là tài sản được tặng cho riêng. Xét thấy, đối với 4 chỉ vàng 24kra được tặng cho trong ngày cưới được xác định là tài sản chung của vợ chồng và anh Hùng đã đồng ý chia hai cho chị U, do đó chiếc kiềng cũng là tài sản được tặng cho trong ngày cưới nên cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng, phía anh H trình bày đã bán 5.000.000 đồng làm đám đầy tháng cho con và mua tã sữa cho con nhưng không được phía chị U thừa nhận, anh H cũng không có chứng cứ gì để chứng minh cho lời trình bày của mình; do đó nghĩ nên lấy giá trị chiếc kiềng đã bán 5.000.000đồng để chia hai cho hai bên là phù hợp. Như vậy anh H có nghĩa vụ giao lại cho chị U 2.500.000 đồng.

[4] Về nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ vào điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án anh Lê Quốc H và chị Mai Thị U mỗi người phải chịu 150.000 đồng án phí hôn nhân gia đình và 5% án phí chia tài sản đối với tài sản được chia, anh Lê Quốc H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung. Giá vàng 24kra ngày 24/12/2020 là 5.435.000đồng/1 chỉ để làm căn cứ tính án phí chia tài sản cho hai bên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 51, 53, 55, 56, 59, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, các Điều 28, 35, 147, 235, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Lê Quốc H và chị Mai Thị U.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 12 ngày 24/3/2016 của Ủy ban nhân dân Xã Vĩnh Nhuận, Huyện Châu Thành, Tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của anh Lê Quốc H và chị Mai Thị U như sau:

Chị Mai Thị U được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Lê Mai Trí Dũng, sinh ngày 04/10/2016. Anh Lê Quốc H đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung Lê Mai Trí D mỗi tháng bằng ½ mức lương tối thiểu theo từng thời điểm thi hành án, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 24/12/2020 cấp cho đến khi cháu Dũng tròn 18 tuổi do chị Mai Dành quyền tới lui, thăm nom con chung cho anh H, không ai đuợc cản trở.

3. Về tài sản: Anh Lê Quốc H có nghĩa vụ giao lại tài sản đuợc chia cho chị Mai Thị U là 2 (hai) chỉ vàng 24kra, 7 (bảy) phân vàng 18kra, 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) và 01 tủ áo bằng nhôm.

4. Về án phí:

Anh Lê Quốc H phải chịu 150.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thm, 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con và 668.500 đồng án phí chia tài sản được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007261 ngày 16/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tnh An Giang. Như vậy, anh Hùng còn phải nộp 818.500 đồng (tám trăm mười tám ngàn năm trăm đồng) tiền án phí.

Chị Mai Thị U phải chịu 150.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thm và 668.500 đồng án phí chia tài sản được khấu trừ vào 520.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007384 ngày 26/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Như vậy, chị U còn phải đóng 298.500 đồng (hai trăm chín mươi tám ngàn năm trăm đồng) tiền án phí.

5. Về kháng cáo: Anh Lê Quốc H và chị Mai Thị U được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/12/2020).

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 486/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, chia tài sản chung

Số hiệu:486/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;