Bản án 48/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 29/4/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số 57/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 03 năm 2020, đối với bị cáo:

PHẠM VĂN M, sinh năm 1983; Giới tính: Nam; Nơi ĐKNKTT: xóm cây Q, xã M, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Lang thang; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Bố: Phạm Văn T (đã chết); Mẹ: Phạm Thị N, sinh năm 1952; Gia đình có 4 anh em, bị caó là con thứ 3; Vợ: Lê Thị S, sinh năm 1994; Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân:

- Tại bản án số 122/2009/HSST ngày 26/10/2009, TAND thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Phạm Văn M 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. M chấp hành án xong ra trại ngày 29/3/2010.

- Tại bản án số 42/2011/HSST ngày 05/7/2011, TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Phạm Văn M 02 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Tại bản án số 80/2011/HSST ngày 28/7/2011, TAND thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Phạm Văn M 03 năm 06 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp hình phạt của bản án số 42 ngày 05/7/2011 và bản án số 80 ngày 28/7/2011, M phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 5 năm 6 tháng tù.

Danh chỉ bản số 155 lập ngày 21/01/2020 tại Công an quận Bắc Từ Liêm, TP.Hà Nội. Bị can bị bắt quả tang ngày 16/01/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại:

- Anh Phạm Khương D, sinh năm 2001; Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt tại phiên tòa)

 - Anh Lê Minh Q, sinh năm 2001; Nơi ĐKHKTT: Xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt tại phiên tòa)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 16/01/2020, Phạm Văn M đi lang thang trong công viên Hòa Bình thuộc Phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, TP.Hà Nội thì thấy một nhóm thanh niên đang quay phim tại khu vực tượng đài Trung tâm của công viên. Qua quan sát, M thấy nhóm thanh niên để túi xách, đồ đạc gần chỗ quay phim không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. M tiến lại gần trộm cắp 01 ba lô màu đen nhãn hiệu Threebox của anh Lê Minh Q và 01 túi xách bằng vải màu ghi – đen nhãn hiệu Clownz của anh Phạm Khương D. M đeo túi xách vải lên người và cầm chiếc ba lô ở tay rồi đi về hướng nhà chiếu phim 4D của công viên, vừa đi M vừa lục trong chiếc ba lô thấy có 01 ví da màu đen, bề mặt dập vân liền cầm đút vào túi quần bên trái rồi vứt ba lô vào gốc cây bên đường thì bị bắt giữ.

Vật chứng:

- 01 túi xách màu ghiđen, bên trong túi có 01 ví da màu đen, trong ví da có 2.200.000đ;

- 01 ba lô da màu đen, trong ba lô có 01 chiếc ví da màu đen, trong ví da có 500.000đồng;

- 01 điện thoại kiểu dáng Mobistar màu trắng lắp sim 0976041151.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 26/KLĐGTS ngày 26/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bắc Từ Liêm, kết luận:

- 01 ba lô màu đen nhãn hiệu Three Box kích thước 30x40cm đã qua sử dụng có giá trị là 440.000đồng;

- 01 túi xách màu ghi đen nhãn hiệu Clownz kích thước 10x15cm đã qua sử dụng có giá trị là 378.000đồng;

- 01 ví da màu đen bề mặt dập vân kích thước 10x15cm đã qua sử dụng, có giá trị là 80.000đồng;

- 01 chiếc ví da màu đen có chữ “DEGREY”, kích thước 10x15 có giá trị là 75.000đồng.

Tổng trị giá các tài sản định giá được là: 973.000đồng.

Tại bản cáo trạng số: 69/CT-VKS ngày 24/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội quyết định truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 12 - 16 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra và truy tố, Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và lời khai của bị hại cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 16/01/2020, tại khu vực tượng đài trung tâm của công viên Hòa Bình thuộc phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội, Phạm Văn M có hành vi trộm cắp tài sản của anh Phạm Khương D và anh Lê Minh Q với tổng trị giá tài sản là 3.673.000đồng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng (Bao gồm: 01 túi xách màu ghi - đen nhãn hiệu Clownz trị giá 378.000đồng, 01 ví da màu đen có chữ “DEGREY” trị giá 75.000đồng, số tiền 2.200.000đồng là của anh Phạm Khương D; 01 ba lô màu đen nhãn hiệu Threebox trị giá 440.000đồng, 01 ví da màu đen dập vân, trị giá 80.000đồng, số tiền 500.000đồng là của anh anh Lê Minh Q).

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.Vừa chấp hành án xong ra trại ngày 17/8/2016, mặc dù đã được xóa án tích nhưng chứng tỏ bị cáo đã được giáo dục pháp luật nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Vì thế, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và để giáo dục phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy: sau khi thực hiện tội phạm, bị cáo đã tỏ ra ăn năn hối cải thành khẩn khai báo và tài sản đã được thu hồi trả người bị hại là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra xác định chiếc túi xách bằng vải màu ghi – đen nhãn hiệu Clownz là của anh Phạm Khương D, qua kiểm tra bên trong túi xách có 01 ví da màu đen có chữ “DEGREY” và số tiền 2.200.000đồng. Đây đều là tài sản của anh D. Ngày 12/3/2020, cơ quan CSĐT – Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 32 (ĐTTH), trao trả các tài sản trên cho anh D. Anh D đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc ví da màu đen bề mặt dập vân bên trong có 500.000đồng và chiếc ba lô màu đen nhãn hiệu Threebox. Quá trình điều tra xác định các tài sản này đều là của anh Lê Minh Q. Ngày 12/3/2020, cơ quan CSĐT – Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 33 (ĐTTH), trao trả các tài sản trên cho anh Q. Anh Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về vật chứng: 01 điện thoại kiểu dáng Mobistar màu trắng lắp sim 0976041151 thu giữ của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được kháng cáo theo quy định của pháp luật. Người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản.

2. Xử phạt bị cáo 16 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/01/2020.

3.Về vật chứng: 01 điện thoại kiểu dáng Mobistar màu trắng lắp sim 0976041151 thu giữ của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 120/20 ngày 25/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm).

4. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;