Bản án 48/2019/KDTM-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2019/KDTM-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong ngày 20 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2019/TLST-KDTM ngày 19/03/2019 về “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2019/QĐXXST-KDTM ngày 08 tháng 7 năm 2019 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 102/2019/QĐST-KDTM ngày 29 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu C; địa chỉ trụ sở: đường P, Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: bà N, sinh năm 1994; địa chỉ liên lạc: đường H, phường Đ, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy ủy quyền ngày 07/11/2018. (có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: bà T, sinh năm 1987 - Luật sư của Công ty Luật TNHH P sự thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt)

2. Bị đơn: Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng công trình T; địa chỉ trụ sở: đường A, khu dân cư L, phường H, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: ông H, sinh năm 1972; địa chỉ: đường K, phường G, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)

 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn-Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu C có người đại diện hợp pháp là bà N trình bày:

Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu C (gọi tắt là Công ty C) và Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng công trình T (gọi tắt là Công ty T) có ký hợp đồng kinh tế số: 21/CMT-2017 ngày 15/5/2017 và Phụ lục hợp đồng kinh tế số 01-21/CMT-2017 ngày 08/6/2017, với nội dung cơ bản là Công ty C bán cho Công ty T sản phẩm bột đá (loại chuyên dùng cho sản xuất bê tông nhựa) theo đơn đặt hàng của Công ty T, về thanh toán thì Công ty T tạm ứng cho CMT 30% giá trị đơn đặt hàng sau khi bên Công ty C xác nhận đơn đặt hàng và thời gian giao hàng; chốt khối lượng và xuất hóa đơn vào ngày 25 đến ngày 30 hàng tháng, 70% giá trị đơn hàng còn lại thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ yêu cầu thanh toán; nếu Công ty T chậm thanh toán thì bên Công ty T phải trả lãi phạt quá hạn 1%/tháng trên tổng số tiền quá hạn; vào cuối mỗi tháng, hai bên lập bảng đối chiếu công nợ để xác nhận số dư và các khoản phát sinh khác (nếu có), biên bản này làm cơ sở cho những đợt thanh toán tiếp theo hoặc làm cơ sở để giải quyết tranh chấp.

Hai bên đã thực hiện hợp đồng, Công ty C đã giao hàng cho Công ty T và đã xuất các hóa đơn giá trị gia tăng, cụ thể: Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000804 ngày 29/11/2017 với tổng cộng tiền thanh toán là 476.695.945 đồng, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000859 ngày 31/12/2017 với tổng cộng tiền thanh toán là 317.387.895 đồng, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000895 ngày 29/01/2018 với tổng cộng tiền thanh toán là 80.685.000 đồng, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000915 ngày 28/02/2018 với tổng cộng tiền thanh toán là 81.025.670 đồng, tổng cộng giá trị thanh toán của các hóa đơn nêu trên là 955.794.510 đồng. Công ty C đã giao đủ hồ sơ yêu cầu thanh toán cho Công ty T nhưng Công ty T chỉ thanh toán cho Công ty C tổng số tiền là 438.188.120 đồng, tính đến ngày 30/4/2018 thì Công ty T còn nợ Công ty c tổng số tiền hàng là 517.606.390 đồng và hai bên đã xác nhận công nợ bằng văn bản ngày 16/5/2018. Sau khi xác nhận công nợ thì Công ty C đã nhiều lần liên hệ trực tiếp và gửi văn bản yêu cầu Công ty T thanh toán số nợ trên, cụ thể là văn bản ngày 13/12/2018 và ngày 26/12/2018 nhưng đến nay Công ty T không thanh toán cho Công ty C.

Tại đơn khởi kiện, tại các bản tự khai của Công ty C và tại các biên bản trong hồ sơ vụ án thì Công ty C yêu cầu Công ty T thanh toán số tiền hàng còn nợ và tiền lãi tính từ ngày 01/5/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, các văn bản gửi chứng từ yêu cầu thanh toán bị thất lạc nên ngày hai bên ký văn bản xác nhận công nợ ngày 16/5/2018 đã xác định Công ty C đã giao đủ hồ sơ yêu cầu thanh toán cho Công ty T. Do đó, Công ty C thay đổi ngày tính tiền lãi phát sinh từ ngày 17/6/2018 (tức là sau 30 ngày kể từ ngày ký xác nhận công nợ ) đến ngày xét xử sơ thẩm. Công ty C đã gửi toàn bộ hồ sơ khởi kiện cho Công ty T nhưng Công ty T cũng không có phản hồi cho Công ty C, cũng như phản hồi cho Tòa án.

Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền mua hàng còn nợ là 517.606.390 đồng, tiền lãi tính từ ngày 17/6/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 20/8/2019), với mức lãi suất 1%/tháng là: 517.606.390 đồng x (14 tháng và 03 ngày) x 1% = 72.982.501 đồng, tổng cộng là 590.588.891 (năm trăm chín mươi triệu, năm trăm tám mươi tám nghìn, tám trăm chín mươi mốt) đồng. Ngoài ra, nguyên đơn còn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lãi do chậm thi hành án khi bản án có hiệu lực theo quy định pháp luật.

Bị đơn-Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng công trình T: Nguyên đơn đã gửi toàn bộ hồ sơ khởi kiện cho bị đơn; Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án và vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng, thời hạn giải quyết vụ án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, nguyên đơn thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, còn bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghe đương sự trình bày và tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 phát biểu quan điểm;

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về pháp luật tố tụng dân sự:

[2] Công ty C khởi kiện tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa đối với Công ty T; địa chỉ trụ sở: đường A, khu dân cư L, phường H, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1, Điều 30, Điểm b, Khoản 1, Điều 35, Điểm a, Khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn Công ty T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về pháp luật nội dung:

[5] Công ty C yêu cầu Công ty T thanh toán số tiền mua hàng còn nợ và tiền lãi do chậm thanh toán theo thỏa thuận trong Hợp đồng kinh tế số: 21/CMT-2017 ngày 15/5/2017, Phụ lục hợp đồng kinh tế số 01-21/CMT-2017 ngày 08/6/2017 và văn bản xác nhận công nợ ngày 16/5/2018, cụ thể như sau:

[6] - Tiền mua hàng còn nợ: 517.606.390 đồng;

[7] - Tiền lãi do chậm thanh toán tính từ ngày 17/6/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 20/8/2019), với mức lãi suất 1%/tháng: 517.606.390 đồng x (14 tháng và 03 ngày) x 1% = 72.982.501 đồng.

[8] Tổng cộng số tiền yêu cầu thanh toán: 590.588.891 (năm trăm chín mươi triệu, năm trăm tám mươi tám nghìn, tám trăm chín mươi mốt) đồng.

[9] Xét yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền hàng còn nợ là 517.606.390 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[10] Hợp đồng kinh tế số: 21/CMT-2017 ngày 15/5/2017 và Phụ lục hợp đồng kinh tế số 01-21/CMT-2017 ngày 08/6/2017 đảm bảo về mặt hình thức, phù hợp với quy định tại Điều 24 Luật Thương mại, nên có hiệu lực pháp luật.

[11] Thực hiện hợp đồng trên, nguyên đơn đã giao hàng và đã xuất các hóa đơn giá trị gia tăng cho bị đơn, cụ thể: Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000804 ngày 29/11/2017 với tổng cộng tiền thanh toán là 476.695.945 đồng, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000859 ngày 31/12/2017 với tổng cộng tiền thanh toán là 317.387.895 đồng, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000895 ngày 29/01/2018 với tổng cộng tiền thanh toán là 80.685.000 đồng, Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000915 ngày 28/02/2018 với tổng cộng tiền thanh toán là 81.025.670 đồng. Như vậy tổng giá trị tiền hàng của các hóa đơn nêu trên là 955.794.510 đồng, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền là 438.188.120 đồng và hai bên đã tiến hành đối chiếu công nợ bằng văn bản ngày 16/5/2018, theo đó hai bên xác nhận tính đến ngày 30/4/2018 bị đơn còn nợ nguyên đơn tổng số tiền là 517.606.390 đồng.

[12] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trình bày của nguyên đơn thể hiện từ khi xác nhận công nợ ngày 16/5/2018 đến nay bị đơn chưa thanh toán thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn nợ 517.606.390 đồng. Như vậy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền hàng còn nợ nêu trên là phù hợp với quy định tại Điều 50 Luật thương mại năm 2005 nên có cơ sở chấp nhận.

[13] Đối với yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[14] Tại đơn kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán thêm số tiền lãi do vi phạm nghĩa vụ thanh toán trên số tiền hàng còn nợ theo Hợp đồng kinh tế số: 21/CMT-2017 ngày 15/5/2017, Phụ lục hợp đồng kinh tế số 01-21/CMT-2017 ngày 08/6/2017 và văn bản xác nhận công nợ ngày 16/5/2018, với mức lãi suất 1%/tháng, tính từ ngày 01/5/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm. Nay, nguyên đơn thay đổi thời điểm tính lãi, cụ thể là tiền lãi tính từ ngày 17/6/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 20/8/2019) là: 517.606.390 đồng x (14 tháng và 03 ngày) x 1% = 72.982.501 đồng. Xét nguyên đơn thay đổi thời điểm tính tiền lãi như trên không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, phù hợp với quy định tại Khoản 1, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

[15] Theo quy định tại Điều 306 Luật thương mại năm 2005: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

[16] Trong Hợp đồng kinh tế số: 21/CMT-2017 ngày 15/5/2017, tại khoản 3.2, Điều 3 hai bên thỏa thuận thời hạn thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thanh toán; tại khoản 3.4, Điều 3 của hợp đồng hai bên thỏa thuận nếu bên B (Công ty T) thanh toán trễ hạn thì bên B phải trả thêm tiền lãi phạt quá hạn là 1%/tháng trên tổng số tiền quá hạn; tại khoản 3.5, Điều 3 của hợp đồng hai bên thỏa thuận vào cuối mỗi tháng, hai bên lập bảng đối chiếu công nợ để xác nhận số dư và các khoản phát sinh khác (nếu có), biên bản này làm cơ sở cho những đợt thanh toán tiếp theo hoặc làm cơ sở để giải quyết tranh chấp. Xét sự thỏa thuận nêu trên là phù hợp với quy định tại Điều 11, Điều 55 và Điều 306 Luật thương mại năm 2005.

[17] Thực hiện hợp đồng thì nguyên đơn đã giao hàng và đã xuất các hóa đơn giá trị gia tăng cho bị đơn nêu tại mục [11] thì tổng giá trị tiền hàng của các hóa đơn là 955.794.510 đồng, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền là 438.188.120 đồng, sau đó hai bên đã xác nhận công nợ bằng văn bản ngày 16/5/2018 có nội dung tính đến ngày 30/4/2018 bị đơn còn nợ nguyên đơn tổng số tiền là 517.606.390 đồng. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán với mức lãi suất là 1%/ tháng tính từ ngày 17/6/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 20/8/2019), cụ thể: 517.606.390 đồng x (14 tháng và 03 ngày) x 1% = 72.982.501 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[18] Đối với bị đơn: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ bị đơn đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ án, nhưng bị đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, nên phải chịu hậu quả theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án.

[19] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn ngay khi án có hiệu lực pháp luật tổng số tiền gốc và lãi là: 517.606.390 đồng + 72.982.501 đồng = 590.588.891 đồng.

[20] Tại hợp đồng kinh tế nêu trên hai bên có thỏa thuận mức lãi suất do chậm thanh toán là 1%/tháng nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu tiền lãi do chậm thi hành án theo quy định pháp luật là có lợi cho bị đơn nên Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

[21] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

[22] Nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ yêu cầu nên nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 13.207.904 đồng.

[23] Bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền 590.588.891 (năm trăm chín mươi triệu, năm trăm tám mươi tám nghìn, tám trăm chín mươi mốt) đồng nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 27.623.556 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1, Điều 30, Điểm b, Khoản 1, Điều 35, Điểm a, Khoản 1, Điều 39, Điều 91, Điều 144, Điều 147, Điểm b, Khoản 2, Điều 227, Khoản 3, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 11, Điều 24, Điều 50, Điều 55 và Điều 306 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014,

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty C:

Buộc Công ty T phải thanh toán cho Công ty C ngay khi án có hiệu lực pháp luật tổng số tiền 590.588.891 (năm trăm chín mươi triệu, năm trăm tám mươi tám nghìn, tám trăm chín mươi mốt) đồng, trong đó số tiền nợ gốc 517.606.390 (năm trăm mười bảy triệu, sáu trăm linh sáu nghìn, ba trăm chín mươi) đồng và tiền lãi 72.982.501 (bảy mươi hai triệu, chín trăm tám mươi hai nghìn, năm trăm linh một) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

- Công ty T phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 27.623.556 (hai mươi bảy triệu, sáu trăm hai mươi ba nghìn, năm trăm năm mươi sáu) đồng.

- Công ty C được nhận lại số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp là 13.207.904 (mười ba triệu, hai trăm linh bảy nghìn, chín trăm linh bốn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2017/0026849 ngày 19/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thi hành án tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Công ty C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Công ty T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyền kháng nghị trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Kể từ ngày Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu CMT có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền còn thiếu nêu trên, thì hàng tháng Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng công trình (Tranimexco) còn phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất là 1%/năm tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2019/KDTM-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:48/2019/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;