Bản án 48/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Ngh - Sinh năm: 1995; tại Long An; nơi cư trú: Ấp 3, xã Bình Th, huyện C, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph và bà Nguyễn Thị Kim L; bị cáo chưa có vợ và con; Anh em ruột: có 6 người lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2001.

Tiền án: Tại bản án số 24/2016/HSST ngày 06/7/2016 của Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xử phạt Nguyễn Văn Ngh 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, đã chấp hành án xong hình phạt tù, chưa thi hành xong phần nghĩa vụ dân sự.

Tiền sự; không.

Nhân thân: Ngày 07/3/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2016/HSST ngày 7/3/2016 – đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/5/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đức Huệ.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa

- Người bị hại: Ông Võ Văn Nh – Sinh năm 1997 – Địa chỉ: ấp 3, xã Bình Hòa H, huyện C, tỉnh Long An. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn L - Sinh năm 1977 - Địa chỉ: ấp Rạch Đ, xã Ninh Th, huyện Đ, tỉnh Trà Vinh. (Vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng măt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần có tiền để tiêu xài cá nhân, Nguyễn Văn Ngh nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền. Sau khi chuẩn bị công cụ để mở khóa xe, khoảng 20 giờ 20 phút ngày 21 tháng 5 năm 2019, Ngh đi bộ từ nhà Ngh tại ấp 3 xã Bình Th, huyện C đến ngã 5 xã Bình Th sau đó Ngh bơi qua con kênh thuộc khu vực ấp 3, xã Bình Hòa H, huyện C và đi bộ trên bờ kênh được khoảng 500 mét Ngh phát hiện 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RSX, biển số 84K1-092-45 của ông Võ Văn Nh đang để bên bờ kênh mà không có người trông coi. Ngh dùng đoản mở công tắc xe, khi mở xong xe không chạy được, Ngh dùng tay rút dây công tắc xe và điều khiển chạy về khu Công nghiệp Tân Đức, huyện Đức H, tỉnh Long An, sau đó Ngh đến gặp Nguyễn Thanh T là bạn của Ngh đang trọ tại đây. Khi gặp T, Ngh rủ T đi Thành phố Hồ Chí Minh để thăm mẹ của Ngh đang buôn bán tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. T sử dụng xe mô tô trên chở Ngh đến khu vực Bà Hom thuộc địa phận thành phố Hồ Chí Minh thì gặp lực lượng Công an Phường Tân Tạo tuần tra phát hiện bắt giữ và bàn giao cho Công an huyện C xử lý.

Vật chứng tạm giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, màu sơn xanh, đen, đỏ số máy: JC43E6021098, số khung: 4326BY106697, biển số: 84K1-092-45, 01 chìa khoá 10, 01 cây sắt lục giác đập dẹp 01 đầu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 65/KL.TCKH ngày 23/5/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đức Huệ, kết luận xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, số máy: JC43E6021098, số khung: 4326BY106697, biển số: 84K1-092-45; màu sơn: xanh, đen, đỏ có giá trị 11.200.000 đồng Trách nhiệm dân sự: ông Võ Văn Nh đã nhận lại tài sản theo quyết định trả lại tài sản ngày 18/6/2019, không có yêu cầu gì thêm.

Đối với 01 chìa khoá 10, 01 cây sắt lục giác đập dẹp 1 đầu, bị cáo Ngh dùng để thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị tịch thu tiêu huỷ. Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện C đang tạm giữ.

Cáo trạng số: 47/CT-VKS-ĐH ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Ngh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Ngh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ngh từ 12 đến 18 tháng tù.

Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phần Cơ quan điều tra đã xử lý xong nên không đề cập xem xét.

Đối với 01 chìa khoá 10, 01 cây sắt lục giác đập dẹp 1 đầu, bị can Ngh dùng để thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị tịch thu tiêu huỷ.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Võ Văn Nh tại phiên tòa trình bày đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào ngày 21/5/2019 (khoảng 20 giờ 20 phút) Nguyễn Văn Ngh đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của ông Võ Văn Nh, thực hiện hành vi lén lút trộm xe Wave RSX biển số kiểm soát 84K1-092.45 đang để trên bờ kênh không người trông coi. Qua định giá tài sản là xe Honda Wave RSX có giá trị 11.200.000 đồng. Đến ngày 23/5/2019, bị cáo Ngh bị bắt giữ và thu hồi toàn bộ số tài sản bị cáo chiếm đoạt trả cho chủ sở hữu.

[2] Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan cảnh sát điều tra, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo điều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên điều thực hiện đúng và hợp pháp.

[3] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn Ngh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai của người bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường do Công an huyện C lập, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu do Công an phường Tân Tạo A, quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh lập lúc 00 giờ 10 phút ngày 23/5/2019, Kết luận định giá tài sản số 65/KL.TCKH ngày 23/5/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đức Huệ, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng bị cáo Nguyễn Văn Ngh phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, cáo trạng 47/CT-VKS-ĐH ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Ngh với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Ngh là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là một công dân có đầy đủ lý trí để nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân được pháp luật bảo vệ nếu người nào cố tình chiếm đoạt sẽ bị pháp luật xử lý nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý, mục đích của bị cáo là chiếm đoạt tài sản của bị hại để tiêu xài cho cá nhân. Hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm.

[5] Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn Ngh thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn Ngh có 01 tiền án chưa được xóa án tích cụ thể tại bản án số 24/2016/HSST ngày 6/7/2016 của Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xử phạt Nguyễn Văn Ngh 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, và phải nộp 1.500.000 đồng tiền thu lợi bất chính vào công quỹ Nhà nước bị cáo đã chấp hành án xong hình phạt tù và chỉ nộp 200.000 đồng tiền thu lợi bất chính vào Ngân sách Nhà nước còn phải nộp 1.300.000 đồng tiền thu lợi bất chính vào công quỹ Nhà nước - chưa được xóa án tích lại phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với Nguyễn Thanh T đã có hành vi điều khiển xe mô tô do Ngh trộm cắp mà có chở Ngh đi nhưng do T không biết xe trên do Ngh trộm cắp mà có nên không xem xét xử lý với tội danh liên quan là phù hợp.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Ngh là có cơ sở theo quy định pháp luật.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Võ Văn Nh tại phiên tòa, trong lời khai đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập xem xét. Nếu sau này có phát sinh yêu cầu bồi thường sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác.

[10] Về các biện pháp tư pháp: Phần Cơ quan điều tra đã xử lý xong không có yêu cầu xem xét lại nên đề cập xem xét.

Đối với 01 chìa khoá 10, 01 cây sắt lục giác đập dẹp 1 đầu, bị cáo Ngh dùng để thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị tịch thu tiêu huỷ.

Toàn bộ tang vật hiện do cơ quan thi hành án dân sự huyện C đang quản lý theo quyết định chuyển vật chứng số 39 ngày 06/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ.

[11] Bị cáo Nguyễn Văn Ngh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Bộ luật hình sự; Các Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 326, Điều 329, Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Ngh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ngh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam (23/5/2019).

Tiếp tục tạm giam bị cáo Ngh để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

4. Về các biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 chìa khoá 10, 01 cây sắt lục giác đập dẹp 1 đầu là công cụ, để Ngh thực hiện hành vi phạm tội. Tang vật hiện do cơ quan thi hành án dân sự huyện Đức Huệ đang quản lý theo quyết định chuyển vật chứng số 39 ngày 06/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ).

5. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Ngh phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước.

6. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 23/9/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;