Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 48/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1036/2018/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 12 năm 2018 về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Quách Tấn M, sinh năm: 1962 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Số 11, ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C.

- Bị đơn: Bà Lê Ngọc Ph, sinh năm: 1963 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Số 11, ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lê Ngọc Th, sinh năm: 1968 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Số 11, ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, quá trình hòa giải vụ án và tại phiên tòa, ông Quách Tấn M trình bày:

- Về hôn nhân: Ông và bà Lê Ngọc Ph xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống vợ chồng vào năm 1990, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C nhưng giấy chứng nhận kết hôn bị thất lạc nên ông, bà đăng ký lại vào năm 2009. Hôn nhân được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục, tập quán và được gia đình hai bên chấp thuận.

Quá trình chung sống, ông M cho rằng cuộc sống vợ, chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cải vã, không quan tâm, chăm sóc cho nhau, vài năm trước đây, ông đã nộp đơn ly hôn với bà Ph nhưng để tạo cơ hội cho vợ, chồng có thời gian suy nghĩ, tìm cách khắc phục nhưng không hiệu quả. Do đó, ông xét thấy tình cảm vợ, chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Ph.

- Về con chung: Ông M xác định giữa ông và bà Ph có 02 người con chung là Quách Thảo Q, sinh ngày 09/6/1991 và Quách Tấn T, sinh ngày 17/10/2003. Hiện cháu Q đã lập gia đình và sống riêng, còn cháu T đang sống chung với bà Ph. Khi ly hôn, ông M cho rằng ông đi làm thuê nên không có điều kiện nuôi con nên ông đồng ý giao cháu T cho bà Ph nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ.

- Về tài sản chung: Ông M xác định vợ, chồng ông không tài sản chung nên ông không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Ông M khai giữa vợ, chồng ông không thiếu nợ ai và không ai nợ lại vợ, chồng ông.

* Tại biên bản hòa giải ngày 27/12/2018, bà Lê Ngọc Ph trình bày: Về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, thời gian chung sống, con chung đúng như ông M trình bày. Về mâu thuẫn vợ, chồng: Bà xác định cũng có mâu thuẫn nhưng không đáng kể, vì còn thương chồng nên bà không đồng ý ly hôn.

Tại phiên tòa, bà Ph cho rằng ông M kiên quyết ly hôn, có níu kéo thì cũng không hạnh phúc nên bà chấp nhận ly hôn với ông M. Đối với con chung là cháu Quách Tấn T hiện chưa thành niên nên bà đồng ý nuôi con, yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ, ông M không đồng ý. Về tài sản chung, bà Ph xác định, vợ, chồng bà có chiếc xe Wave biển số 69C1-172.84 do ông M đứng tên sở hữu, trị giá xe còn lại là 8.000.000đ. Khi ly hôn, bà đồng ý giao xe cho ông M quản lý, sử dụng, bà yêu cầu ông M giao lại cho bà một nửa giá trị chiếc xe là 4.000.000đ, ông M đồng ý. Về nợ chung, bà Ph khai rằng, khoảng năm 2000, bà có nhờ bà Lê Ngọc Th vô dùm 01 chưng hụi, loại hụi 2.000.000đ/tháng, gồm 35 chưng, nửa tháng khui một kỳ. Hụi này bà hốt xong nhưng chỉ đóng lại được một số kỳ, hiện bà còn nợ bà Th 36.700.000đ. Khi ly hôn, bà yêu cầu ông M có trách nhiệm trả ½ khoản nợ này bằng 18.350.000đ, ông M chấp nhận.

* Tại phiên tòa, bà Lê Ngọc Th trình bày: Năm 2000, bà Ph và ông M có nhờ bà vô dùm 01 chưng hụi, ông M và bà Ph đã hốt hụi nhưng không đóng hụi chết cho bà, hiện ông M, bà Ph còn nợ bà 36.700.000đ. Bà yêu cầu ông M và bà Ph cùng có trách nhiệm trả nợ cho bà nhưng bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Trường hợp ông M, bà Ph không trả nợ thì bà sẽ yêu cầu thành vụ kiện khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Về loại việc tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Ông M và bà Ph đều cư trú trên địa bàn thành phố Cà Mau; ông, bà có phát sinh tranh chấp về ly hôn và nuôi con nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Ông Quách Tấn M và bà Lê Ngọc Ph xác lập quan hệ vợ, chồng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn vào năm 2009 và đủ điều kiện kết hôn theo luật định nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống, do vợ, chồng có nhiều điểm bất đồng trong mối quan hệ tình cảm, không quan tâm, chăm sóc, cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Xét mâu thuẫn thực tế là có nhiều mâu thuẫn, nhận thấy về mục đích hôn nhân không đạt. Bởi lẽ, theo ông M và bà Ph cho rằng, trong cuộc sống vợ chồng, ông, bà mỗi người đều có cách sống, công việc khác nhau, ông M thường xuyên đi làm nghề lái xe cho nhà hàng, ít khi có nhà; còn bà Ph thường xuyên cờ bạc, không chăm lo cuộc sống gia đình và nuôi dạy con. Từ đó, giữa vợ, chồng đã nhiều lần cải vã, làm mất lòng tin đối với nhau, mỗi người có cuộc sống và mối quan hệ riêng tư, không quan tâm, giúp đở lẫn nhau. Mặt khác, sau khi xảy ra mâu thuẫn, ông, bà cũng tự dung hoà để hàn gắn tình cảm vợ, chồng nhưng không có hiệu quả. Vì vậy, ông, bà đã tự sống ly thân từ nhiều năm nay, thời gian này để cho ông, bà có điều kiện thử thách bản thân, suy ngẫm về cuộc sống vợ, chồng đã qua nhằm tìm cách tháo gỡ, khắc phục khuyết điểm của mỗi bên để vợ, chồng đoàn tụ nhưng không ai có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn và cũng không quan tâm, thăm hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Hơn nữa, tự bản thân bà Ph cũng biết rõ là không thể chung sống với ông M được nữa nên tại phiên tòa, bà đồng ý ly hôn với ông M. Bên cạnh đó, ông M kiên quyết ly hôn, nếu không được xem xét thì ông cũng không thể quay lại chung sống với bà Ph, vì tình cảm không còn và tương lai, hạnh phúc cũng không có. Vì vậy, Hội đồng xét xử công nhận cho ông M và bà Ph được thuận tình ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Ông M và bà Ph xác định giữa ông, bà có 02 người con chung  là  Quách Thảo Q, sinh ngày 09/6/1991 và Quách Tấn T, sinh ngày 17/10/2003. Hiện cháu Q đã lập gia đình và sống riêng, còn cháu T đang sống chung với bà Ph. Khi ly hôn, ông M cho rằng do cuộc sống khó khăn, ông phải đi làm thuê, không có điều kiện nuôi con nên ông đồng ý giao cháu T cho bà Ph nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ; bà Ph đồng ý nuôi con, yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy:

Tuy nguyện vọng của cháu T muốn được sống chung với ông M nhưng hiện ông M và bà Ph ly hôn nên ông không còn cư trú tại địa chỉ số 11, ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C. Bên cạnh đó, ông làm nghề tài xế lái xe nên không có điều kiện gần gũi, chăm sóc cho con. Vì vậy, cần giao cháu Quách Tấn T cho bà Lê Ngọc Ph chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, ông M đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu Tài mỗi tháng 1.000.000đ; bà Ph yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi cháu Tài mỗi tháng 2.000.000đ. Xét thấy, theo bà Ph trình bày, ông M có thu nhập hàng tháng trên 7.000.000đ thì mức thu nhập này cũng không phải là cao, ông M chưa có chỗ ở phải thuê chỗ ở, chi phí ăn uống, sinh hoạt hàng ngày, cấp dưỡng nuôi con, đóng học phí cho con, thanh toán nợ cho bà Th nên mức cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000đ là tương đối phù hợp. Mặt khác, theo tinh thần hướng dẫn tại công văn số: 16/1999/KHXX ngày 01/9/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới ½ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con. Do đó, việc ông M đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000đ là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Ông M, bà Ph xác định, vợ, chồng ông, bà có chiếc xe Wave biển số 69C1-172.84 do ông M đứng tên sở hữu, trị giá xe còn lại là 8.000.000đ. Khi ly hôn, bà Ph đồng ý giao xe cho ông M quản lý, sử dụng, bà yêu cầu ông M giao lại cho bà một nửa giá trị chiếc xe là 4.000.000đ, ông M đồng ý. Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự trên tinh thần tự nguyện, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[5] Về nợ chung: Ông M, bà Ph có nợ tiền hụi bà Lê Ngọc Th số tiền 36.700.000đ,  khi  ly  hôn,  ông,  bà  thỏa  thuận  mỗi  người  có  trách  nhiệm  trả 18.350.000đ cho bà Th. Do bà Th không yêu cầu giải quyết khoản nợ của bà trong vụ án này nên Hội đồng xét xử chỉ ghi nhận trách nhiệm trả nợ của ông M, bà Ph.

Nếu sau này có phát sinh tranh chấp, bà Th được quyền khởi kiện ông M và bà Ph thành một vụ án khác.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch về phân chia tài sản buộc ông M và bà Ph phải chịu theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng buộc ông M phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 51, 55, 58, 59, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm a, b khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Quách Tấn M và bà Lê Ngọc Ph.

2. Về con chung: Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông M và bà Ph – buộc ông Quách Tấn M giao cháu Quách Tấn T, sinh ngày 17/10/2003 cho bà Lê Ngọc Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc ông M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000đ. Thời hạn cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực đến khi cháu Tài đủ 18 tuổi. Ông M được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông M và bà Ph – tiếp tục giao chiếc xe Honda nhãn hiệu Wave, biển số 69C1-172.84 do ông M đứng tên, cho ông M được toàn quyền sở hữu. Buộc ông M giao lại cho bà Ph số tiền 4.000.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà Ph có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông M không tự nguyện thi hành xong khoản tiền cấp dưỡng nuôi con và khoản tiền phân chia tài sản giao lại bà Ph thì hàng tháng phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thực hiện.

4. Về nợ chung: Ghi nhận trách nhiệm trả nợ của ông M, bà Ph đối với bà Th. Do bà Th không yêu cầu giải quyết trong vụ án này nên không đề cập giải quyết.

5. Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, ông M phải chịu 300.000đ.

Ngày 07 tháng 12 năm 2018, ông M đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 1746 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được đối trừ chuyển thu sung quỹ nhà nước. Án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng buộc ông M phải chịu 300.000đ và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch về phân chia tài sản (chưa nộp). Buộc bà Ph phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch về phân chia tài sản (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Ông M, bà Ph, bà Th được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:48/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;