Bản án 48/2018/HS-ST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Song An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình  xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý  số: 41/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2018/QĐXXST-HS ngày 15/6/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H sinh ngày: 25/9/1993 tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 09/12; Con ông Nguyễn Đức H và bà Lê Thị D; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2012 tham gia quân đội nhân dân Việt Nam, đến ngày 08/01/2014 xuất ngũ về địa phương. Bị bắt tạm giữ từ ngày 19/5/2018, đến ngày 25/5/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Chính H, sinh năm: 1985.

Nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2. Anh Cao Xuân Quang, sinh năm 1977

Nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 19/5/2018, tại đường 454 thuộc thôn Ô, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Nguyễn  Đức  H  có  hành  vi  tàng  trữ trái  phép  0,2314  gam ma  túy,  loại Methamphetamine tại túi quần dài phía trước, bên trái H đang mặc.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Do muốn mua ma túy về sử dụng cho bản thân nên khoảng 09 giờ ngày 19/5/2018, bị cáo đi xe khách từ Hà Nội về tỉnh Thái Bình. Trên đường đi bị cáo có nhắn tin cho người tên T hỏi mua ma túy đá và hẹn nhau đến vườn hoa Thành phố T. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, bị cáo xuống xe khách ở khu vực cầu Đá thuộc địa phận phường P, thành phố T. Sau khi xuống xe ô tô bị cáo thuê một người xe ôm không biết tên, tuổi, địa chỉ chở ra vườn hoa thành phố T. Đến nơi, bị cáo bảo người xe ôm đứng chờ còn bị cáo một mình đi bộ vào trong vườn hoa mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, bị cáo không biết tuổi, địa chỉ 300.000đồng được 01 gói nhỏ ma túy đá gói bằng giấy tráng kim màu trắng. Sau đó, bị cáo tiếp tục thuê người xe ôm này chở về huyện H. Trên đường đi, bị cáo mở gói giấy tráng kim vừa mua được kiểm tra thì thấy bên trong có chất dạng tinh thể màu trắng, biết chắc là ma túy đá nên bị cáo gói lại như cũ rồi bỏ vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long và cho vào túi quần dài bên trái phía trước bị cáo đang mặc. Khi về đến khu vực đường 454 thuộc thôn Ô, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, trong lúc đứng chờ người xe ôm đổ xăng thì bị cáo bị lực lượng Công an huyện Vũ Thư yêu cầu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của những những người làm chứng; Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Vũ Thư lập hồi 12 giờ 15 phút ngày 19 tháng 5 năm 2018 đều thể hiện như lời khai của bị cáo.

Bản kết luận giám định số 168/KLGĐ-PC54 ngày 19/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu giám định thu giữ của Nguyễn Đức H là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2314 gam” (Không phẩy hai nghìn ba trăm mười bốn gam). Methamphetamine STT: 67, Danh mục II, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ

Bản Cáo trạng số 44/KSĐT ngày 15 tháng 6 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch  thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 168/KLGĐ bên trong có 0,2025 gam ma túy, loại Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Đức H và 01 bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 07 điếu thuốc chưa qua sử dụng; Trả lại bị cáo số tiền 300.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo không khiếu nại hay có ý kiến gì.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, lời khai của những người làm chứng và được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Bản kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 19/5/2018, tại đường 454 thuộc thôn Ô, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình bắt quả tang Nguyễn Đức H có hành vi tàng trữ trái phép 0,2314 gam ma túy, loại Methamphetamine tại túi quần dài phía trước, bên trái H đang mặc, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, do vậy phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo và có thời gian tham gia quân đội theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy hoàn trả sau giám định, 01 bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 07 điếu thuốc chưa qua sử dụng thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 300.000đ thu của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[7 Về các vấn đề khác trong vụ án:

Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, chưa xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Đối với người xe ôm đã chở bị cáo, bị cáo khai không quen biết người này và bị cáo cũng không nói cho người này biết việc bị cáo đi mua ma túy để mua ma túy nên không xem xét, xử lý.

Đối với người cho bị cáo số điện thoại của người bán ma túy, bị cáo không biết tên, tuổi địa chỉ. Số điện thoại bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy là sim rác bị cáo mới mua nên không nhớ số, chiếc điện thoại của bị cáo đã làm rơi mất, số điện thoại của người bán ma túy bị cáo không nhớ nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra để xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Đức H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2018.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,2025 gam ma túy, loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 168/KLGĐ ngày 19/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 01 bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 07 điếu thuốc chưa qua sử dụng.

Trả lại bị cáo số tiền 300.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng đang được Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình quản lý theo phiếu nhập kho ngày 15/6/2018 và Biên lai thu tiền số 0003548 ngày 15/6/2018)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;  Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/6/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;