Bản án 48/2018/HS-ST ngày 12/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 12/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2018 tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2018/TLST - HS ngày 24 tháng 5 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXXST - HS ngày 29 tháng 6 năm 2018 đối với các bị cáo:

1/ NGUYỄN VĂN D, sinh ngày 02/7/1975; Tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Thôn Tr, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; Trình độ văn hoá: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc : Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo : Không; Quốc tịch : Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức R (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1928; Vợ : Lê Thị V, sinh năm 1977, có 02 con lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự : Không.

- Nhân thân :

+ Năm 1998, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

+ Năm 2005, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Năm 2012, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 05/02/2014, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương.

Bị bắt khẩn cấp ngày 26/12/2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đông Triều, có mặt.

2/ VŨ ĐÌNH Đ, sinh ngày 02/5/1995; Tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã B, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; Trình độ văn hoá: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc : Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo : Không; Quốc tịch : Việt Nam; Con ông Vũ Đình H, sinh năm 1975 và bà Hoàng Thị N, sinh năm 1977; Vợ, con : Chưa có; Tiền án, tiền sự : Không.

- Nhân thân : Năm 2012, bị Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương xử phạt 13 tháng 15 ngày tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 26 tháng về tội “Cướp giật tài sản”. Bị bắt quả tang ngày 26/12/2017, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thị xã Đông Triều, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

1/ Chị Lê Thị V, sinh năm 1977; Nơi cư trú : Thôn Tr, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

2/ Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1988 ; Nơi cư trú : Số nhà 12, ngõ 2, khu 2, phường T, phố phố M, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

- Người làm chứng :

1/ Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn Tr, xã B, huyện K, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.

2/ Ông Ngô Văn L, sinh năm 1959; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Th, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN 

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Do nghiện chất ma túy, khoảng 09 giờ ngày 25/12/2017, Nguyễn Văn D một mình đi từ nhà đến khu vực đường tàu, thuộc thành phố Hải Phòng (D không biết cụ thể là địa điểm nào), để tìm mua ma túy nhằm đem về bán kiếm lời. Tại đây D gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ lai lịch địa chỉ rồi hỏi và thỏa thuận mua 7.000.000đ (bẩy triệu đồng) ma túy trong đó có 4.000.000đ (bốn triệu đồng) mua ma túy loại Heroine và 3.000.000đ (ba triệu đồng) mua ma túy dạng đá, sau khi người đàn ông này nhận tiền và đưa cho D 01 túi nilon bên trong có chứa chất ma túy, D liền cất giấu vào túi quần đang mặc rồi quay về nhà. Đến nhà D bỏ túi nilon ma túy ra kiểm tra thấy có 03 (ba) túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy Heroine) còn 01 (một) túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy dạng đá), D chia thành 07 (bẩy) túi nilon nhỏ rồi đem cất giấu cùng với 03 (ba) túi nilon chứa chất Heroine vào chiếc hộp gỗ để ở đầu giường ngủ của D.

Khoảng 08 giờ ngày 26/12/2017, Vũ Đình Đ (là bạn quan hệ xã hội) gọi điện thoại di động cho D hỏi mua 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) ma túy loại Heroine, thì được D đồng ý và nói “đến cầu Đạm Thủy có người đưa ma túy cho”. Sau đó D lấy ra 01 (một) túi nilon chia một phần ma túy vào một mảnh giấy rồi gói lại nhờ một người thanh niên mới quen biết (nhưng không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể) đem gói giấy chứa chất ma túy này đến khu vực cầu Đ, xã Th, thị xã Đông Triều giao cho Đ. Khi Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14F5 - 3232 đi đến địa điểm như đã hẹn thì gặp một người thanh niên đi xe mô tô Sirius màu đỏ đen, Đ đến gặp và đưa cho người này 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và nhận lại một gói giấy bên trong chứa chất ma túy, sau khi có ma túy Đ điều khiển xe mô tô đến khu vực phía sau Trường Trung học phổ thông dân lập N, thuộc xã Th, thị xã Đông Triều mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 (một) gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 (một) điện thoại di động Iphone X và 01 xe mô tô biển kiểm soát 14F5- 3232.

Tiếp đến khoảng 09 giờ cùng ngày anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1992, trú tại thôn Tr, xã B, huyện K, tỉnh Hải Dương điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14Z1- 321.03 đi đến khu vực ngã ba Quán Cát, thuộc thôn Đ, xã Th, thị xã Đông Triều thì gặp một người thanh niên không quen biết nhờ anh Đ mua hộ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) ma túy loại Heroine, Đ đồng ý và cầm của người này 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) rồi gọi điện thoại di động cho D hỏi còn ma túy, loại Heroine, D đồng ý và bảo xuống khu vực bờ ao gần Cổng thôn Triều khê, xã Hồng Phong gặp D, khi Đ đến địa điểm đã hẹn thì gặp D, tại đây D nhận 200.000đ và giao lại cho Đ 01 (một) gói giấy bên trong có chất bột màu trắng (nghi là ma túy Heroine). Sau khi mua được ma túy, Đ điều khiển xe mô tô đến gặp và đưa gói ma túy cho người thanh niên nhờ mua hộ trước đó và được người này chia cho một phần, nên Đ gói số ma túy này vào mảnh giấy bạc, đồng thời cất giấu vào ví da để ở trong túi quần đang mặc. Đến 13 giờ 15 phút cùng ngày, khi Đ đi đến Cổng thôn Đ, xã Th, thị xã Đông Triều thì bị Công an thị xã Đông Triều kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng cất trong ví ở túi quần, 01 điện thoại di động OPPO và một xe mô tô biển kiểm soát 14Z1- 231.03.

Căn cứ vào tài liệu xác minh, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Đông Triều tiến hành bắt và khám xét khẩn cấp nơi ở của nguyễn Văn D thu giữ 01 (một) hộp gỗ bên trong có 03 (ba) túi nilon chứa chất bột màu trắng, 02 (hai) túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, 01 (một) hộp nhựa bên trong hộp có 01 (một) túi nilon kích thước (7 x 4) cm bên trong có 05 túi nilon đều có kích thước 1,5 x 2) cm bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng, ngoài ra còn thu giữ của D 01 (một) điện thoại di động OPPO và 01 (một) điện thoại Vicool.

Tại bản kết luận giám định số 45/GĐMT ngày 28/12/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận : Mẫu vật gửi giám định trong phong bì niêm phong thu giữ của Vũ Đình Đ là chất ma túy; Loại Heroine; Trọng lượng 0,199 gam (không phẩy một chín chín gam).

Tại bản kết luận giám định số 46/GĐMT ngày 29/12/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận : Mẫu vật gửi giám định trong phong bì niêm phong thu giữ của Nguyễn Văn Đ là chất ma túy; Loại Heroine; Trọng lượng 0,018 gam (không phẩy không một tám gam).

Tại bản kết luận giám định số 47/GĐMT ngày 29/12/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận : Mẫu vật gửi giám định trong 03 (ba) túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn D (ký hiệu M1 đến M3) là chất ma túy; Loại Heroine. Tổng trọng lượng 10,192 gam (mười phẩy một chín hai gam). Chất tinh thể màu trắng thu giữ trong 07 (bẩy) túi nilon của Nguyễn Văn D ký hiệu từ M4 đến M10) là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng trọng lượng là 5,708 gam (năm phẩy bẩy không tám gam). (Heroine nằm trong danh mục I, STT 09; Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất).

Quá trình điều tra Nguyễn Văn D và Vũ Đình Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Ngoài ra D còn thừa nhận toàn bộ số ma túy khi bị cơ quan điều tra thu giữ là tàng trữ nhằm mục đích để bán.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKS - ĐT ngày 22/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều - tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Vũ Đình Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Nguyễn Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm c, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Vũ Đình Đ từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 26/12/2017. Áp dụng điểm c, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn D từ 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 26/12/2017 . Áp dụng điểm c khoản  1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 45 và số 47/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 (một) hộp gỗ đã hỏng bản lề ở nắp mở. Hộp đã qua sử dụng và 01 (một) hộp nhựa màu trắng kích thước 5/6/1,5) cm.

Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VICOOL màu bạc thu giữ của bị cáo D.

Buộc bị cáo D phải nộp lại số tiền thu lời bất chính là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sung quỹ nhà nước.

Trả lại cho anh Hoàng Văn Đ 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng máy có số Imei 353053090588718 và chị Lê Thị V 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng. Máy có số Imei 1 : 863654031045156; Imei 2 :863654031045149 máy đã qua sử dụng. (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Đông Triều và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều ngày 23/5/2018).

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

 [1] Tại phiên tòa, các bị cáo Vũ Đình Đ và Nguyễn Văn D khai nhận hành vi phạm tội của mình như phần “nội dung vụ án” đã nêu. Các bị cáo xác định hành vi mà các bị cáo đã thực hiện là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp thời gian địa điểm xảy ra vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh lập hồi 10 giờ 26 phút và hồi 13 giờ 30 phút; Biên bản khám xét lập hồi= 18 giờ 40 phút ngày 26/12/2017; Biên bản kiểm tra thông tin điện thoại lập ngày 27/12/2017; Phù hợp với biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản nhận dạng; Kết luận giám định số 45/GĐMT ngày 28/12 số 46 và 47 ngày 29/12/2018 cũng như lời khai của những người làm chứng anh Nguyễn Văn Đ và ông Ngô Văn L, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa như vậy có đủ căn cứ để khẳng định :

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 25/12/2018, Nguyễn Văn D có hành vi sang khu vực đường tàu, thuộc thành phố Hải phòng gặp và mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ 10,409g (mười phẩy bốn không chín gam) ma túy loại Heroine và 5,708g (năm phẩy bẩy không tám gam) ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng và bán cho những người nghiện. Đến sáng ngày 26/12/2017 D bán cho Vũ Đình Đ 0,199gam (không phẩy một chín chín gam) ma túy loại Heroine với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và bán cho Nguyễn Văn Đ 0,018 gam (không phẩy không một tám gam) ma túy loại Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), khi Đ và Đ đang chuẩn bị sử dụng ma túy trái phép thì bị Công an thị xã Đông Triều bắt quả tang, sau đó D cũng bị bắt và bị thu giữ toàn bộ vật chứng.

[2] Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Văn D đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c, p khoản 2 Điều 251 và Vũ Đình Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng đã quy kết là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Không những thế nó còn ảnh hưởng rất xấu đến việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Hiện nay vấn nạn ma túy đã trở thành hiểm họa chung cho cả nhân loại, khi đã nghiện chất ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp dạng đá (Methamphetamine) nó gây ra ảo giác rất mạnh, làm thay đổi tâm sinh lý rất dễ kích thích làm cho người sử dụng không thể kiểm soát được hành vi, luôn hoang tưởng, nặng hơn sẽ mắc chứng tâm thần. Trong nhiều năm qua Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết tệ nạn nghiện chất ma tuý và tìm mọi biện pháp nhằm loại bỏ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội. Đồng thời cũng nghiêm trị những người có hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Các bị cáo là thanh niên có sức khoẻ, hiểu rõ tác hại của chất ma tuý, nhưng do thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện, ham chơi đua đòi nên đã lao vào con đường nghiện chất ma tuý rồi dẫn đến phạm tội.

Xét nhân thân các bị cáo thì thấy : Bị cáo D năm 1998, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

+ Năm 2005, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Năm 2012, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 05/02/2014, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương.

Bị cáo Vũ Đình Đ : Năm 2012, bị Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương xử phạt 13 tháng 15 ngày tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 26 tháng về tội “Cướp giật tài sản”. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương mặc dù đã được xóa án tích, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội.

Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới tương xứng đúng mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đồng thời mới có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xét : Tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được sai phạm của mình. Nên Hội đồng xét xử áp điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ cho các bị cáo một phần về hình phạt, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng trong chính sách hình sự của pháp luật nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải, quyết tâm sữa chữa lỗi lầm để trở thành người lương thiện.

 [3] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 phạt các bị cáo một khoản tiền để sung quỹ nhà nước. Nhưng cũng xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng. Nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án : 02 (hai) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 45 và số 47/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 (một) hộp gỗ đã hỏng bản lề ở nắp mở. Hộp đã qua sử dụng và 01 (một) hộp nhựa màu trắng kích thước 5/6/1,5)cm. Đây là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng máy có số Imei 353053090588718, bị cáo Đ mượn của anh Hoàng Văn Đ, nhưng anh Đ không biết Đ dùng để lên lạc mua ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng. Máy có số Imei 1 : 863654031045156; Imei 2:863654031045149 thu của Nguyễn Văn D là của chị Lê Thị V (vợ của bị cáo) không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho anh Đ và chị V là phù hợp; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VICOOL màu bạc. Trên bàn phím điện thoại đã bị mờ hết số, mặt phía sau đã bị xước nhiều máy đã qua sử dụng bị cáo D dùng để liên lạc bán ma túy, nên cần tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước. (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Đông Triều và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều ngày 23/5/2018).

Số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) Đ đưa cho người đàn ông đến giao ma túy do D nhờ cầm đến giao cho Đ, nhưng người thanh niên chưa đưa lại số tiền trên cho D nên không có căn cứ buộc D phải nộp lại, còn số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) D bán ma túy cho anh Nguyễn Văn Đ. D là người trực tiếp nhận đây là tiền do phạm tội mà có nên buộc D phải nộp lại để sung quỹ nhà nước.

Đối với Nguyễn Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,018 gam (không phẩy không mười tám gam) ma túy loại Heroine, nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, ngày 27/12/2017 Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều đã ra quyết định trả tự do và ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

Đối với người thanh niên D nhờ đi bán hộ ma túy cho Đ, người thanh niên nhờ Đ mua hộ ma túy của D và người đàn ông bán ma túy cho D, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có căn cứ xử lý.

[5] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

 [6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều. Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều. Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH 

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt : Vũ Đình Đ 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 26/12/2017.

- Căn cứ vào điểm c, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt : Nguyễn Văn D 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 26/12/2017.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) hộp gỗ đã hỏng bản lề ở nắp mở. Hộp đã qua sử dụng và 01 (một) hộp nhựa màu trắng kích thước 5/6/1,5)cm; 02 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 45 và 47/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

Trả lại cho anh Hoàng Văn Đ 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng máy có số Imei 353053090588718; Trả lại cho chị Lê Thị V 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng. Máy có số Imei 1 : 863654031045156; Imei 2 :863654031045149.

Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VICOOL màu bạc. Trên bàn phím điện thoại đã bị mờ hết số, mặt phía sau đã bị xước nhiều máy đã qua sử dụng. (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Đông Triều và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều ngày23/5/2018). Buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp lại số tiền thu lời bất chính là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc Nguyễn Văn D và Vũ Đình Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 12/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;