TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 48/2017/HSST NGÀY 25/08/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Văn phòng ấp A, xã B, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2017/HSST, ngày 21/7/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2017/HSST-QĐ, ngày 07/8/2017 đối với bị cáo:
Phạm Tuấn A, sinh năm 1994 tại Yên Bái. Nơi cư trú: Phường A, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; con ông: Phạm Minh T và bà Trần Thị T; tiền sự, tiền án: Không. Về nhân thân: Bản án số 51/2013/HSPT ngày 29/5/2013 Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “trộm cắp tài sản”; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2017 cho đến nay; Bi cao có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bùi Tiến N, sinh năm 1992; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Tổ A, phường B, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông.
2. Phạm Thị C, sinh năm 1967; Vắng mặt. Nơi cư trú: Khối A, thị trấn B, Eakar, Đăk Lắk.
3. Phạm Minh T, sinh năm 1969; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Tổ A, phường B, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông.
4. Nguyễn Văn X, sinh năm 1972; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Tổ A, phường B, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông.
Người làm chứng:
Trần Quang T, sinh năm 1995; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Tổ A, phường B, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 14/4/2017, Trần Quang T điều khiển xe mô tô biển số 47 F1–03453 chở Phạm Tuấn A xuống Thành phố Hồ Chí Minh để mua phụ tùng sửa xe môtô. Khoảng 6 giờ ngày 15/4/2017, cả hai đến Thành phố Hồ Chí Minh nhưng cửa hàng bán phụ tùng xe chưa mở cửa nên Tuấn A nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. Tuấn A nói dối với T là chở Tuấn A qua chợ Phạm Văn Hai thuộc quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh cho Tuấn A lấy đồ, T đồng ý. Khi đến chợ Phạm Văn Hai, T dừng xe đứng chờ trước ngõ hẻm (không xác định được vị trí cụ thể) cho Tuấn A xuống xe đi bộ vào hẻm. Tại đây, Tuấn A dùng điện thoại di động hiệu Iphone 7, có số thuê bao 0914627373 gọi vào số điện thoại 01234590911 của một người phụ nữ tên M (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua ma túy dạng đá. Một lúc sau, có một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đến chở Tuấn A đi gặp M, M bán cho Tuấn A 02 bịch ma túy (số ma túy này được đựng trong 02 bịch ni lông miệng kéo dính) với số tiền 3.500.000 đồng. Tuấn A giấu 02 bịch ma túy vào vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven, bỏ vào túi quần bên trái rồi đi bộ ra gặp T nhưng không nói cho T biết việc Tuấn A đã mua ma túy. T chở Tuấn A đến khu vực chợ Tân Thành, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh mua phụ tùng sửa xe mô tô xong cả hai quay về. Trên đường về, Tuấn A thấy một cửa hàng (không xác định được địa điểm cụ thể) có bán dụng cụ sử dụng ma túy đá nên ghé vào mua 01 bộ, rồi cả hai ghé vào khách sạn trên đường nghỉ ngơi. Khi vào khách sạn, Tuấn A lấy một ít ma túy ra sử dụng cùng T, số còn lại Tuấn A tiếp tục cất giấu vào túi quần nhưng không cho T biết. Sau đó, T chở Tuấn A quay về tỉnh Đăk Nông. Khi đi trên đường ĐT741, đến địa phận ấp Bưng Riềng, xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo thì Phạm Tuấn A bị lực lượng tuần tra Công an huyện Phú Giáo phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Kết luận giám định số 206/MT – PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương ngày 21/4/2017 kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định có trọng lượng 4,8204gam, có chất Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính Phủ. Mẫu vật sau giám định có trọng lượng: 4,2496 gam.
Tại bản Cáo trạng số 42/QĐ–KSĐT ngày 24/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Tuấn A về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội, xử lý vật chứng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Tuấn A phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công cách mạng và áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 (hai) đến 03 (ba) năm tù.
Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng, thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng: Hội đồng xét xử xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do và đã có lời khai trong hồ sơ, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng theo quy định tại Điều 191, 192 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.
[3] Về nội dung vụ án:
Khoảng 22 giờ ngày 15/4/2017, Phạm Tuấn A đã có hành vi vận chuyển 4,8204 gam chất Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 82/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ từ Thành phố Hồ Chí Minh về tỉnh Đăk Nông để sử dụng. Trên đường vận chuyển đến địa điểm thuộc ấp Bưng Riềng, xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo thì bị lượng lực tuần tra Công an huyện Phú Giáo bắt quả tang.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tuấn A khai nhận: Nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo công bố tại phiên tòa giống với Cáo trạng mà bị cáo đã nhận và phù hợp với diễn biến sự việc, hành vi của bị cáo.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Về nhận thức, bị cáo biết được hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Với các tình tiết của vụ án được chứng minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ kết luận bị cáo Phạm Tuấn A đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an trong khu vực, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mà Nhà nước ta đang tiến hành.
Ma túy đang là hiểm họa của nhân loại vì sử dụng rồi thì rất khó từ bỏ, nó không những gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng mà còn làm lây lan nhiều căn bệnh xã hội nguy hiểm, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Về nhân thân bị cáo đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản, bị Tòa án xử phạt 02 (hai) năm tù. Lẽ ra, sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo phải cố gắng phấn đấu để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần phải có một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có ông ngoại là người có công cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây là tình tiết để Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.
Xét bị cáo hiện tại không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng thu giữ trong vụ án:
- 02 bịch ni lông màu trắng bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể nghi là ma túy (bịch ni lông miệng kéo). Mẫu vật này sau khi giám định được cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật có trọng lượng 4,2496gam; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy bằng thủy tinh. Xét thấy, đây là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 xe mô tô biển số 47F1–03453, đây là xe của bà Phạm Thị C đã bán cho cửa hàng xe máy Văn Thắng do ông Nguyễn Văn X làm chủ. Sau đó, ông Bùi Tiến N mua lại chiếc xe này của cửa hàng xe máy Văn Thắng nhưng chưa làm thủ tục sang tên, ông N cho Trần Quang T mượn làm phương tiện đi lại. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của ông Bùi Tiến N, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã giao trả chiếc xe này cho ông N, ông N nhận xe và không yêu cầu gì thêm.
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 245228899; 01 giấy phép lái xe hạng A1, số 670147006409; 01 giấy phép lái xe số 670147006409 hạng B1, B2 mang tên Phạm Tuấn A; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59F1 – 73018, 01 tờ USD có mệnh giá 100 đô, 01 tờ USD có mệnh giá 10đô, 02 tờ USD có mệnh giá 5 đô, 01 tờ USD có mệnh giá 2 đô, 01 tờ USD có mệnh giá 1 đô và số tiền 1.190.000 đồng. Xét thấy đây là những giấy tờ, tài sản cá nhân của Phạm Tuấn A, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã trả lại cho Phạm Tuấn A. Bị cáo đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone7. Đây là điện thoại của ông Phạm Minh T cho Phạm Tuấn A mượn sử dụng, ông T không biết Tuấn A dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã trả lại cho ông Phạm Minh T, ông T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì.
- 01 bộ đầu nòng xe Yamaha Z, 01 ống xả xe Yamaha Z, 01 giấy chứng minh nhân dân số 245233457, 01 giấy phép lái xe hạng A 1, B2, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 47F1 – 03453, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng, 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, 01 đồng hồ đeo tay hiệu HanoWa. Xét thấy, đây là giấy tờ cá nhân, là tài sản của Trần Quang T không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã giao trả cho T.
Trần Quang T đi cùng Phạm Tuấn A nhưng không biết việc Tuấn A vận chuyển trái phép chất ma túy nên hành vi của T không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không đặt vấn đề xử lý đối với Trần Quang T là phù hợp.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Quang T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp với quy định của pháp luật.
Người thanh niên chưa rõ nhân thân, lai lịch, người phụ nữ tên M là người bán ma túy cho Phạm Tuấn A và là chủ thuê bao số điện thoại 01234.590.911, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và các tình tiết khác đối với bị cáo cũng như về xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Tuấn A phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009:
Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/4/2017 .
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:
Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật sau khi giám định được niêm phong có trọng lượng 4,2496gam; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy bằng thủy tinh.
(Thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2017 giữa cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo với Chi cục THADS huyện Phú Giáo)
4. Về án phí: Áp dụng các Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buôc bị cáo Phạm Tuấn A phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 48/2017/HSST ngày 25/08/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 48/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về