TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 48/2017/HSPT NGÀY 25/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 56/2017/HSPT ngày 06/7/2017 đối với bị cáo Nguyễn Huy N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
*Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Huy N (tên gọi khác: Nguyễn Huy D), sinh năm 1972; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tiểu khu C, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Huy T và bà Dương Thị Lại T (đã chết); có vợ là Dương Thị H; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2016; tiền sự, tiền án: Không
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2017 đến nay, hiện bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:
1. Anh Dương Văn T, sinh năm 1995; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tiểu khu Tháp, thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt
2. Anh Nguyễn Đình S, sinh năm 1976; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn Quang Trung, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt
3. Anh Phạm Văn C, sinh năm 1968; nơi cư trú: tổ 5, phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 18/01/2017, Dương Văn T và Nguyễn Đình S là bạn bè rủ nhau mỗi người góp số tiền 400.000 đồng để đi mua ma túy về sử dụng. Sau đó, T gọi điện cho Nguyễn Huy N. T nói: “Chú còn đồ không để cho cháu tám trăm”, ý T hỏi mua của N 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) tiền ma túy dạng đá, N nói: “ừ, có”. T hiểu ý N đồng ý bán ma túy cho T, T bảo N: “Thế tý cháu sang”, N nói: “Chú đang ăn cơm gần cây xăng Phú Thịnh có gì sang đấy”. T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 90F4-5050 chở S xuống khu vực quán cơm gần cây xăng Phú Thịnh. Khi đến nơi, T gọi điện cho N và nói: “Cháu đến nơi rồi”. N hiểu ý T nên đi bộ từ quán cơm ra khu vực đường vành đai N2 thuộc tiểu khu L, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam thì gặp T đang đứng cùng với Nguyễn Đình S. Lúc này, T đưa cho N số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng), N cầm tiền đồng thời đưa lại cho T 01 (một) túi nilon màu trắng được hàn kín bên trong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng. Ngay lúc đó, N, T và S bị lực lượng Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an thị trấn Kiện Khê bắt quả tang.
*Tài sản, vật chứng thu giữ gồm:
- Thu giữ của Dương Văn T: 01 (một) túi nilon màu trắng hàn kín, bên trong có chất dạng tinh thể màu trắng nghi là ma túy được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01, 01 điện thoại Nokia 105 vỏ màu đen đã cũ bên trong lắp sim mạng Viettel số thuê bao 0961728972 được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT03; 01 (một) xe máy biển kiểm soát 90F4-5050.
- Thu giữ của Nguyễn Hữu N: 01 điện thoại Sony vỏ màu đen đã cũ; 01 điện thoại Nokia1280, vỏ màu xanh đen đã cũ; 01 điện thoại Nokia 105 vỏ màu đen, đã cũ bên trong lắp một sim điện thoại mạng Viettel số thuê bao 01637992879 được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT06; 01 hộp nhựa màu trắng bên trong có 08 (tám) túi nilon màu trắng hàn kín, bên trong đều chứa chất dạng tinh thể màu trắng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT05; 01 điện thoại Samsung vỏ màu trắng bạc; 01 ví màu đen đã cũ; 01 điện thoại Iphone; 01 (một) túi nilon màu trắng hàn kín bên trong có 01 (một) viên dạng nén màu hồng; 01 (một) túi nilon màu trắng hàn kín bên trong có một nửa viên dạng nén màu nâu và số tiền 3.690.000đ (Ba triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở, đồ vật của Nguyễn Huy N tại tiểu khu C, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không phát hiện, thu giữ tài liệu đồ vật gì.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm đã trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam và Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định chất, loại, trọng lượng số tang vật thu giữ.
Tại bản kết luận giám định số 19/PC54-MT ngày 21/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể bên trong 01 (một) túi nilon trong mẫu ký hiệu QT01 gửi giám định có trọng lượng là 0,148g (không phẩy một trăm bốn mươi tám gam) có Methamphetamine”. Chất màu trắng dạng tinh thể bên trong 08 (tám) túi nilon trong mẫu ký hiệu QT05 gửi giám định có tổng trọng lượng là 0,814g (Không phẩy tám trăm mười bốn gam) có Methamphetamine”
Tại bản kết luận giám định số 386/C54(TT2) ngày 24/02/2017 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: 01 (một) viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu QT04 gửi giám định có trọng lượng 0,102g (Không phẩy một trăm linh hai gam), có Methamphetamine; Mảnh viên nén màu nâu trong phong bì ký hiệu QT04 gửi giám định có trọng lượng 0,214g (Không phẩy hai trăm mười bốn gam), có Phenobarbital và Ketamine”.
Với hành vi phạm tội trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy N 48 (bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2017 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, xử lý vật chứng và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 13/6/2017 bị cáo Nguyễn Huy N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Huy N, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 35/2017//HSST ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xử phạt bị cáo Nguyễn Huy N 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2017.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Huy N một lần nữa khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử nhận thấy: khoảng 18 giờ 30 phút ngày 18/01/2017, tại đường N2 thuộc tiểu khu L, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Huy N bán 0,148g (không phẩy một trăm bốn mươi tám gam) có Methamphetamine” cho Dương Văn T với giá 800.000 đồng bị Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an thị trấn Kiện Khê bắt quả tang. Ngoài ra Nguyễn Huy N còn cất giấu là 0,814g (Không phẩy tám trăm mười bốn gam) có Methamphetamine”; 01 (một) viên nén màu hồng có trọng lượng 0,102g (Không phẩy một trăm linh hai gam) có Methamphetamine và 1/2 viên nén màu nâu có trọng lượng 0,214g (Không phẩy hai trăm mười bốn gam) có Phenobarbital và Ketamine” với mục đích sử dụng và bán khi có người mua. Như vậy, có đủ căn cứ xác định Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm xét xử bị cáo về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Huy N cấp phúc thẩm thấy: Khi lượng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Huy N, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm đã xem xét bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tại giai đoạn phúc thẩm gia đình bị cáo cung cấp bản sao Huân chương kháng chiến hạng ba của ông Nguyễn Huy T là bố đẻ bị cáo, bản sao giấy khai sinh Nguyễn Kim N, sinh ngày 31/01/2016; Biên lai thu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ và đơn xin xác nhận gia đình khó khăn. Tuy bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm nguy hiểm khác. Bản thân bị cáo có quá trình nhân thân xấu, có 01 tiền án năm 1998 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đến nay đã được xoá án tích, song bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để sửa chữa lỗi lầm mà lại phạm tội. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết phải tuyên mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội, do vậy kháng cáo của bị cáo không được cấp phúc thẩm chấp nhận. Cần giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Ghi nhận việc chị Dương Thị H vợ bị cáo đã tự nguyện nộp thay bị cáo Nguyễn Huy N số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, số tiền trên được đối trừ trong quá trình thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Huy N (tên gọi khác Nguyễn Huy D). Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Huy N 48 (Bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2017 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Huy N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Ghi nhận việc chị Dương Thị H vợ bị cáo đã tự nguyện nộp thay bị cáo Nguyễn Huy N số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam theo biên lai thu tiền số AA/2010/04149 ngày 26/6/2017. Số tiền trên được đối trừ tiền án phí hình sự sơ thẩm mà bị cáo phải nộp trong quá trình thi hành án.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 48/2017/HSPT ngày 25/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 48/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về