Bản án 481/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 481/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú. Tòa án nhân dân huyện An Phú mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 363/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 602/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Neàng G, sinh năm: 1993.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1987.

Cùng cư trú: tổ 24, ấp Phú Nghĩa, xã Phú Hội, huyện An Phú, An Giang.

(Bà Nèang G có đơn xin xét xử vắng mặt; ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Neàng G nộp đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Văn T với nội dung như sau:

Hôn nhân giữa ông, bà được hình thành do thông qua mai mối rồi được cha mẹ hai bên định đoạt đứng ra tổ chức đám cưới vào đầu năm 2009, có đăng ký kết hôn trễ hạn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Hội, huyện An Phú. Cuộc sống chung thời gian đầu tương đối hạnh phúc và phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015 đến nay. Nguyên nhân là do hai người bất đồng quan điểm, sống không hợp nhau, không có tiếng nói chung nên bà bỏ về nhà cha mẹ một sống và thời gian xa nhau đã lâu nên bà không còn tình cảm với ông T nữa. Hai người ly thân nhau từ đó. Nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin ly hôn với ông T.

Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống hai người có một con chung tên Nguyễn Văn T1, sinh ngày 04/01/2009, hiện đang sống với ông T, khi ly hôn bà đồng ý giao con cho ông T tiếp tục nuôi.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà G khai không có, cũng không ai nợ lại ông bà.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông T theo quy định nhưng ông T vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của Bà G và ông T để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa hôm nay, Bà G có đơn xin xét xử vắng mặt và bảo lưu ý kiến của mình. Riêng ông T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông T theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng...là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Căn cứ hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy hôn nhân giữa Bà G và ông T có mâu thuẫn vợ chồng và không thể hàn gắn được, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Hôn nhân giữa Bà G và ông T là do thông qua mai mối, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang là hôn nhân hợp pháp; các đương sự có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Phú, nên yêu cầu xin ly hôn của Bà G được tòa án thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa hai người hình thành do mai mối, được cha mẹ hai bên định đoạt đứng ra tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng thời gian sau phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015 và ly thân nhau cho đến nay. Nay Bà G xin ly hôn với ông T do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được: Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân và nơi cư trú của ông Nguyễn Văn T vào ngày 02/11/2020 được ông Kiều Tuấn Vũ - Công an viên xã Phú Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang cho biết hiện nay ông T vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Phú Nghĩa, xã Phú Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang chưa chuyển đi nơi khác. Về tình trạng hôn nhân thì ông không rõ vì ông T ít có ở nhà, hiện nay đi đâu thì Công an không biết được.

Xét nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn ngay từ ban đầu là bất đồng nhau trong cách sống, lẽ ra hai bên tự tìm cách hóa giải để tạo điều kiện cho cuộc sống hạnh phúc. Hiện tại Bà G xác định là không còn tình cảm với ông T và mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng không có tiếng nói chung không thể tiếp tục chung sống với ông T. Ngược lại cả hai cùng bỏ mặc nhau, không quan tâm, địa phương biết, gia đình biết cả hai không còn yêu thương nhau.

Trong thời gian ly thân cả hai đều không quan tâm nhau để hàn gắn, căn cứ khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân gia đình, thì ông bà đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 luật hôn nhân và gia đình 2014 “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”, do đó Tòa án nhận thấy cả hai vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó Tòa án giải quyết cho ly hôn là có căn cứ.

[3] Về quan hệ con chung: Xét thấy cháu Nguyễn Văn T1, sinh ngày 04/01/2009, từ lúc Bà G và ông T ly thân nhau thì cháu được ông T nuôi dạy cho đến nay, tình cảm cha con giữa ông T và cháu Tiến đã thật sự gắn bó và Bà G cũng trình bày là đồng ý giao cháu Tiến cho ông T nuôi. Để đảm bảo quyền lợi ích của trẻ em được quy định tại khoản 3, Điều 5 Luật trẻ em 2016 thì Tòa án nghĩ nên giao cháu Nguyễn Văn T1 cho ông T tiếp tục nuôi dạy là hoàn toàn phù hợp.

Theo quy định của pháp luật, bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bên nuôi. Tại phiên tòa hôm nay ông T vắng mặt, nếu sau này ông T có yêu cầu thì Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

Hội đồng xét xử cũng giải thích trong bản án cho ông T biết: ông T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở Bà G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà G khai không có.

Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay ông T vắng mặt, sau này ông T có yêu cầu tranh chấp thì Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của Bà G được chấp nhận nên bà phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. ông T không phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Neàng G.

Về hôn nhân: Bà Neàng G được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 130, ngày 02/8/2013 của Ủy ban nhân dân xã Phú Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn T1, sinh ngày 04/01/2009 cho ông Nguyễn Văn T nuôi.

ông T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Neàng G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Neàng G phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004768 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú (bà Neàng G đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/12/2020) Các đương sự được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 481/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:481/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;