Bản án 479/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG 

BẢN ÁN 479/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN 

Trong ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 486/ 2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2019, về tranh chấp “Hôn nhân gia đình - Ly hôn và nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 210/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ S, sinh năm 1991;

Đa chỉ: Thôn 13, xã Hòa B, huyện Di L, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Lê Hoàng Nh, sinh năm 1980;

Đa chỉ: ấp Hòa B 3, xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

(Chị S và anh Nh có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 30/9/2019, bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 18/10/2019, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ S trình bày: Sau khi tìm hiểu, chị và anh Nh được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Lạc, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (Giấy chứng nhận kết hôn số 62 ngày 06/4/2010), thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm, nguyên nhân do anh Nh thường xuyên uống rượu say sỉn, không quan tâm chăm sóc vợ con, đến khoảng năm 2011 anh Nh bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, không ai quan tâm ai, vợ chồng chính thức ly thân từ đó đến nay. Hiện tình cảm không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với anh Lê Hoàng Nhân.

Về con chung: có 01 con chung tên Lê Mỹ Trà My, sinh ngày 08/5/2010 đang sống với anh Nh. Chị S đồng ý cho anh Nh được tiếp tục nuôi con chung, chị không cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, yêu cầu vắng mặt khi xét xử do ở xa đi lại khó khăn.

Tại bản tự khai và biên bản hòa giải, bị đơn anh Lê Hoàng Nhân trình bày: anh với chị Nguyễn Thị Mỹ S có tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và chính thức ly thân từ năm 2011 đến nay. Nay không đồng ý ly hôn với chị S mà yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung: yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Lê Mỹ Trà M, sinh ngày 08/5/2010, không yêu chị S cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung; nợ chung: không có.

Ngoài ra, do bận làm ăn xa nên xin vắng mặt tại phiên tòa.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung: Hôn nhân của chị S và anh Nh được xác lập trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện, cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của chị S xin ly hôn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: chị S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nh và nuôi con chung nên xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: anh Lê Hoàng Nhân là bị đơn có nơi cư trú tại ấp Hòa Bình 3, xã Hòa lạc, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, căn cứ điểm a khoản 1 2 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Chị S và anh Nh có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh, chị theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: chị S yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nh. Xét chứng cứ có trong hồ sơ cùng kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa thể hiện, hôn nhân của anh chị được xác lập năm 2010 trên cơ sở tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chính thức ly thân từ năm 2011 đến nay; mặc dù anh Nh không đồng ý ly hôn nhưng anh không hàn gắn được tình cảm vợ chồng trong thời gian dài sau khi ly thân, mỗi người sinh sống một nơi, không ai quan tâm ai, từ đó tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; điều này phù hợp lời trình bày của chị S, anh Nh và bà Huỳnh Thị Cẩm X (mẹ anh Nh), do đó, chị S yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Về nuôi con chung: anh, chị có 01 con chung tên Lê Mỹ Trà M, sinh ngày 08/5/2010 đang sống với anh Nh. Xét, từ khi ly thân đến nay cháu My do anh Nh trực tiếp chăm sóc, giáo dục, đảm bảo phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và cháu có nguyện vọng sống với cha, căn cứ quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, cần giao cháu M cho anh Nh tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con đến thành niên hoặc tự lập được; chị S không phải cấp dưỡng cho con; anh Nh phải tạo mọi điều kiện thuận lợi khi chị S đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con; mặt khác, nếu có căn cứ cho rằng, anh Nh không còn đảm bảo các điều kiện nuôi dạy con hoặc có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có Ghi nhận lời trình bày đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị S anh Nh phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Chị S phải án phí theo qui định pháp luật. Anh Nh không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

3 Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 26; khoản 5, khoản 6 Điều 27 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Về hôn nhân: chị Nguyễn Thị Mỹ S được ly hôn với anh Lê Hoàng Nh.

Giấy chứng nhận kết hôn số 62, ngày 06/4/2010 của Ủy ban nhân dân xã Hòa Lạc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho anh Lê Hoàng Nhân và chị Nguyễn Thị Mỹ S không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Anh Lê Hoàng Nh được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung tên Lê Mỹ Trà M, sinh ngày 08/5/2010 đến thành niên hoặc tự lập được; Chị Nguyễn Thị Mỹ S không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.

Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Mỹ S phải chịu án phí hôn nhân, gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006225 ngày 14/10/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (đã nộp đủ). Anh Lê Hoàng Nh không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 479/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:479/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;