Bản án 477/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 477/2019/DS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 66/2019/TLST-DS ngày 15/01/2019 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2019/QĐXXST-DS ngày 17/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2019/QĐST-DS ngày 07/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V ; địa chỉ trụ sở: đường L, phường L, Quận Đ, Thành phố Hà Nội; địa chỉ liên lạc: đường P, Phường K, quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn H (hoặc ông Lê Ngọc T) - Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 15/7/2019).

Ông H có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1977;

Địa chỉ: chung cư L, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Ông S vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiên đề ngày 02/3/2018 của nguyên đơn và quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 26/02/2015, ông Nguyễn Thanh S lập Giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế (dành cho khách hàng cá nhân) để đề nghị sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (viết tắt là “Ngân hàng”). Theo đó, Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng cho ông S với hạn mức sử dụng là 30.000.000 đồng, mục đích tiêu dùng cá nhân. Lãi suất trong hạn được điều chỉnh trong từng thời kỳ theo quy định của Ngân hàng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Nguyễn Thanh S đã sử dụng số tiền nợ gốc tính đến ngày 29/10/2019 là 29.929.776 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ từ ngày kích hoạt thẻ đến ngày khởi kiện, ông S đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 13.625.262 đồng. Từ ngày 01/01/2016 ông S không thanh toán nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng đã nhiều lần làm việc nhắc nhở nhưng ông S vẫn không thực hiện việc trả nợ. Do ông S vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên từ ngày 09/02/2016 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ số dư nợ còn thiếu S nợ quá hạn. Tính đến ngày 29/10/2019, ông Nguyễn Thanh S còn nợ Ngân hàng số tiền 83.073.984 đồng, trong đó, nợ gốc là 29.929.776 đồng, nợ lãi là 53.144.208 đồng.

Ngày 09/3/2015, ông S tiếp tục có Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng đề nghị vay tiền. Ngân hàng đã cho ông S vay số tiền là 35.000.000 đồng, lãi suất 30%/năm cố định trong suốt thời hạn vay, lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn, thời hạn vay là 36 tháng, mục đích vay để mua xe máy. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, vào ngày 17 hàng tháng ông S có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và tiền lãi cho đến khi thanh toán hết khoản vay nêu trên. Thực hiện hợp đồng, ngày 17/3/2015 Ngân hàng đã giải ngân và ông S đã nhận đủ số tiền vay. Ông S đã thanh toán cho Ngân hàng được 09 kỳ với số tiền trả nợ gốc là 6.026.675 đồng và tiền lãi là 7.548.605 đồng. Kể từ ngày 01/01/2016 cho đến nay, ông S không thanh toán thêm bất kỳ khoản nào cho Ngân hàng. Tính đến ngày 29/10/2019, ông Nguyễn Thanh S còn nợ Ngân hàng số tiền 79.675.889 đồng, trong đó, nợ gốc là 28.973.325 đồng, nợ lãi là 50.702.564 đồng.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn H đại diện hợp pháp của Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thanh S có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền của cả hai khoản nợ tính đến ngày 29/10/2019 tổng cộng là 83.073.984 đồng + 79.675.889 đồng = 162.749.873 đồng (Một trăm sáu mươi hai triệu bảy trăm bốn mươi chín nghìn tám trăm bảy mươi ba đồng), trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ông Nguyễn Thanh S còn phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 30/10/2019 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo mức lãi suất ông S đã thỏa thuận với Ngân hàng.

Ngân hàng chỉ cho cá nhân ông Nguyễn Thanh S vay tiền, không liên quan đến người khác, do đó Ngân hàng chỉ yêu cầu cá nhân ông S có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ nêu trên.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án chưa thực hiện đúng một số thủ tục về thời gian giao các văn bản tố tụng. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diê n Viê n kiểm sát nhân dân Quâ n 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Thanh S trả số tiền còn nợ. Theo Kết quả xác minh của Công an Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn ông Nguyễn Thanh S có đăng ký tạm trú tại địa chỉ số Chung cư L, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2008 đến tháng 4/2010 thì chung cư giải tỏa, đương sự S chuyển đi đâu không rõ. Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung”. Bị đơn có đăng ký tạm trú và đã từng cư trú tại Quận 11 nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11 theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Thanh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có người đại diện tham gia phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Ông Nguyễn Thanh S được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng ông S vắng mặt không rõ lý do cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Như vậy, ông S đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

3.1 Đối với Giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế (dành cho khách hàng cá nhân) lập ngày 06/02/2015:

Căn cứ Giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ký giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Thanh S, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở xác định ông Nguyễn Thanh S được Ngân hàng cấp thẻ tín dụng có hạn mức 30.000.000 đồng. Mở thẻ ngày 06/3/2015, sau khi cấp thẻ, ông S đã sử dụng thẻ với số tiền nợ gốc tính đến ngày quá hạn 09/02/2016 là 29.929.776 đồng. Ông S đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền là 13.625.262 đồng. Kể từ ngày 01/01/2016 cho đến nay ông S không thanh toán cho Ngân hàng khoản tiền nào. Từ ngày 09/02/2016, Ngân hàng đã chuyển khoản nợ của ông S thành khoản nợ quá hạn theo quy định được hai bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế.

Theo quy định tại Điều 91, Điều 93, khoản 3 Điều 98 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Ngân hàng Thương mại Cổ phần V là tổ chức tín dụng được quyền cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng, Ngân hàng và ông S được quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng theo quy định của pháp luật. Do ông S vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông S thanh toán khoản tiền nợ gốc còn lại là 29.929.776 đồng là có căn cứ.

Căn cứ vào điểm c khoản 4 Điều 13 và Điều 20 của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng thì: “Tổ chức tín dụng chuyển nợ quá hạn đối với số dư nợ gốc mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận và không được tổ chức tín dụng chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ”.

“Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn”.

Ngày 01/01/2016 ông S vi phạm nghĩa vụ thanh toán, đến ngày 09/02/2016, Ngân hàng xác định ông S không trả nợ đúng hạn và số dư nợ gốc chuyển S nợ quá hạn và áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn theo thỏa thuận giữa ông S và Ngân hàng là phù hợp quy định của pháp luật. Do đó, Ngân hàng yêu cầu ông S thanh toán số tiền lãi quá hạn tính từ ngày 09/02/2016 đến ngày 29/10/2019 với số tiền 53.144.208 đồng là có căn cứ.

3.2 Đối với Hợp đồng tín dụng số 3039641 lập ngày 09/3/2015:

Căn cứ vào Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng lập ngày 09/3/2015 được ký giữa ông Nguyễn Thanh S và Ngân hàng; căn cứ vào Bảng liệt kê lịch sử thanh toán của nguyên đơn, có cơ sở để xác định ông S đã vay của Ngân hàng số tiền là 35.000.000 đồng, lãi suất 30%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn, thời hạn vay 36 tháng. Ngân hàng đã giải ngân số tiền vay cho ông S vào ngày 17/3/2015. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông S đã thanh toán cho Ngân hàng được 0 9 k ỳ với số tiền trả nợ gốc là 6.026.675 đồng và tiền lãi là 7.548.605 đồng. Kể từ ngày 01/01/2016 cho đến nay, ông S không thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào cho Ngân hàng, vì vậy từ ngày 09/02/2016 Ngân hàng đã chuyển khoản nợ của ông S thành khoản nợ quá hạn theo quy định trong bản Điều khoản và điều kiện dành cho khách hàng vay tiêu dùng cá nhân, mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ được thỏa thuận giữa ông S và Ngân hàng. Tính đến ngày 29/10/2019, ông Nguyễn Thanh S còn nợ Ngân hàng số tiền 79.675.889 đồng, trong đó, nợ gốc là 28.973.325 đồng, nợ lãi là 50.702.564 đồng Trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Thanh S nhưng ông S vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ kiện, không giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để bảo vệ quyền lợi của mình, cũng như không có bất cứ sự phản đối nào đối với yêu cầu của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ và không có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông S. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp và tài liệu, chứng cứ do Toà án thu thập để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở buộc ông Nguyễn Thanh S có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền của cả 02 khoản nợ tính đến ngày 29/10/2019 tổng cộng là 162.749.873 đồng, trong đó, khoản nợ của Hợp đồng tín dụng là 79.675.889 đồng và khoản nợ thẻ tín dụng là 83.073.9849 đồng. Ông S còn phải trả tiền lãi tiếp tục phát sinh kể từ ngày 30/10/2019 cho đến khi ông S thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo mức lãi suất mà ông S đã thỏa thuận với Ngân hàng.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần V là tổ chức tín dụng có chức năng kinh doanh tiền tệ. Việc bị đơn chậm thanh toán nợ như trên gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do đó yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Nguyễn Thanh S phải thanh toán toàn bộ khoản nợ trên một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ngân hàng không phải chịu án phí và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí. Ông Nguyễn Thanh S phải chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 186, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 244, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 471 và Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

Căn cứ vào Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ vào điểm c khoản 4 Điều 13 và Điều 20 của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng;

Căn cứ vào Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V về việc yêu cầu ông Nguyễn Thanh S trả nợ.

2. Buộc ông Nguyễn Thanh S có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền còn nợ tính đến ngày 29/10/2019 là 162.749.873 đồng (Một trăm sáu mươi hai triệu bảy trăm bốn mươi chín nghìn tám trăm bảy mươi ba đồng), trong đó, khoản nợ của Hợp đồng tín dụng là 79.675.889 đồng và khoản nợ thẻ tín dụng là 83.073.984 đồng. Trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Thanh S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông S phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

3. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Thanh S phải chịu án phí là 8.137.494 đồng (Tám triệu một trăm ba mươi bảy nghìn bốn trăm chín mươi bốn đồng).

Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.182.759 đồng (Ba triệu một trăm tám mươi hai nghìn bảy trăm năm mươi chín đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0008585 ngày 02 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 477/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:477/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;