TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 475/2022/DS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN ĐIỆN
Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 148/2022/TLST-DS ngày 12 tháng 5 năm 2022, về “Tranh chấp hợp đồng mua bán điện” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 306/2022/QĐXXST-DS ngày ngày 11 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 249/2022/QĐST-DS ngày 08 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A Trụ sở chính: Số 35 đường Tôn Đức T, phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T; Sinh năm 1967; Chức danh: Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn; Ông Lê Văn Đ- Giám đốc Chi nhánh Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A - Công ty Điện lực B là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Theo Giấy ủy quyền số 3979/UQ-EVNHCMC ngày 12/10/2021); Ông Huỳnh Long H- Phó Giám đốc Công ty Điện lực B là người được ủy quyền của nguyên đơn (Theo Giấy ủy quyền số 2565/UQ-PCCL ngày 21/10/2021); Ông Phạm Anh T, sinh năm 1971; Địa chỉ: Số 1A K, Phường L, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh là người được ủy quyền lại của nguyên đơn (theo Giấy uỷ quyền số 2862/UQ- PCCL ngày 21/11/2021).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Hồng Hải L, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Số 453/4/22A Bùi Minh K, Phường I, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Các đương sự vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Bà Nguyễn Hồng Hải L là bên mua điện đã ký kết Hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt số 79776116086618, ngày 01 tháng 12 năm 2016 với bên bán điện là Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A tại địa chỉ sử dụng điện là Số 453/4/22A Bùi Minh K, Phường I, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình sử dụng điện bà Nguyễn Hồng Hải L chưa thanh toán cho Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A các thông báo tiền điện sử dụng: từ ngày 12 tháng 5 năm 2021 đến ngày 12 tháng 12 năm 2022 và phí đóng cắt điện 105.840 đồng với tổng số tiền là: 10.665.733 đồng (mười triệu sáu trăm sáu mươi năm ngàn bảy trăm ba mươi ba đồng), cụ thể như sau: Từ ngày 12/5/2021 đến ngày 11/6/2021 với số tiền: 1.794.877 (Một triệu bảy trăm chín mươi tư nghìn tám trăm bảy mươi bảy) đồng; từ ngày 12/6/2021 đến ngày 11/7/2021 với số tiền: 1.757.215 (Một triệu bảy trăm năm mươi bảy nghìn hai trăm mười lăm) đồng; từ ngày 12/7/2021 đến ngày 11/8/2021 với số tiền: 1.785.302 (Một triệu bảy trăm tám mươi lăm nghìn ba trăm lẻ hai) đồng; từ ngày 12/8/2021 đến ngày 11/9/2021 với số tiền: 1.473.825 (Một triệu bốn trăm bảy mươi ba nghìn tám trăm hai mươi lăm) đồng; từ ngày 12/9/2021 đến ngày 11/10/2021 với số tiền:
1.387.243 (Một triệu ba trăm tám mươi bảy nghìn hai trăm bốn mươi ba) đồng; từ ngày 12/10/2021 đến ngày 11/11/2021 với số tiền: 1.311.919 (Một triệu ba trăm mười một nghìn chín trăm mười chín) đồng; từ ngày 12/11/2021 đến ngày 12/12/2021 với số tiền: 1.049.512 (Một triệu không trăm bốn mươi chín nghìn năm trăm mười hai) đồng; phí đóng, cắt điện với số tiền 105.840 (Một trăm lẻ năm nghìn tám trăm bốn mươi) đồng kèm theo thông báo ngừng cung cấp điện ngày 25/12/2021.
Tổng công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A đã nhiều lần gửi thông báo nhắc nợ tiền điện và thực hiện tạm ngưng cung cấp điện tại địa chỉ sử dụng điện (thời gian từ tháng 6/2021 đến 10/2021 dịch bệnh covid 19 dẫn đến giãn cách xã hội ngành điện không thực hiện tạm ngưng cung cấp điện, tháng 11/2021 đến nhắc khách hàng thanh toán và thực hiện tạm ngưng cung cấp điện vào ngày 25/12/2021) nhưng bà Nguyễn Hồng Hải L không thanh toán.
Căn cứ Điều 1, điểm 5 của Hợp đồng mua bán điện đã ký kết thì bà Nguyễn Hồng Hải L không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền điện hàng tháng đầy đủ, đúng thời hạn theo qui định. Do đó bà Nguyễn Hồng Hải L có hành vi vi phạm Hợp đồng mua bán điện nên Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A yêu cầu Tòa án xem xét, đề nghị buộc bà Nguyễn Hồng Hải L phải thanh toán tổng số tiền còn nợ tính đến ngày 25/12/2021 cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 28/9/2022 không thay đổi là 10.665.733 (Mười triệu sáu trăm sáu mươi năm ngàn bảy trăm ba mươi ba) đồng. Trong đó: tiền sử dụng điện còn nợ là: 10.559.893 (Mười triệu năm trăm năm mươi chín nghìn tám trăm chín mươi ba) đồng và phí đóng cắt điện là: 105.840 (Một trăm lẻ năm nghìn tám trăm bốn mươi) đồng cho Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A. Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền trên từ ngày 11/6/2021 đến thời điểm xét xử sơ thẩm (ngày 28/9/2022). Đồng thời yêu cầu bị đơn thanh toán một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên đơn chỉ yêu cầu một mình bà Nguyễn Hồng Hải L thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà không yêu cầu ai khác liên đới cùng bị đơn trả nợ. Nguyên đơn cũng không đồng ý tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về thời gian mở phiên tòa xét xử vụ án đối với bà Nguyễn Hồng Hải L theo yêu cầu của Tòa án và đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết theo quy định.
Bị đơn bà Nguyễn Hồng Hải L đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thu thập được lời khai, không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử Tòa án đã chấp hành đúng các qui định của pháp luật về tố tụng dân sự; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật; bị đơn không thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Căn cứ kết quả xác minh của Công an Phường U, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh: “Đ/s Nguyễn Hồng Hải L, sinh năm 1967 không có thực tế cư ngụ tại tại: số 453/4/22A Bùi Minh K, Phường I, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh”. Căn cứ vào Hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt số 79776116086618, ngày 01 tháng 12 năm 2016 có ghi địa chỉ của bà Nguyễn Hồng Hải L, địa chỉ: số 453/4/22A Bùi Minh K, Phường I, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, Tòa án xác định địa chỉ số 453/4/22A Bùi Minh K, Phường I, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. là địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của bà Nguyễn Hồng Hải L theo quy định tại Khoản 3 Điều 5, Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp lại đơn khởi kiện lại vụ án.
Bị đơn bà Nguyễn Hồng Hải L đã được Tòa án đã tống đạt về thời gian tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 và Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án cũng đã tống đạt cho bị đơn về thời gian tham gia phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Phía nguyên đơn cũng từ chối tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về thời gian mở phiên tòa xét xử vụ án theo yêu cầu của Tòa án và đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết theo quy định. Đồng thời, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Phạm Anh T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Nguyên đơn chỉ yêu cầu một mình bà Nguyễn Hồng Hải L thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho mà không yêu cầu ai khác liên đới cùng bị đơn trả nợ nên không yêu cầu Tòa án triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Do đó, Tòa án không xác định thêm người tham gia tố tụng nào khác.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán điện, do bị đơn có nơi cư trú cuối cùng tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo qui định tại Khoản 3 Điều 26, Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về các yêu cầu của đương sự:
Xét thấy, Hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt số 79776116086618, ngày 01 tháng 12 năm 2016 do hai bên xác lập hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Sau khi ký hợp đồng phía Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A đã cung cấp điện cho bà Nguyễn Hồng Hải L theo đúng thỏa thuận của hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình sử dụng điện bà L đã không thanh toán tiền điện cụ thể: ngày 12/5/2021 đến ngày 11/6/2021 với số tiền: 1.794.877 (Một triệu bảy trăm chín mươi bốn nghìn tám trăm bảy mươi bảy) đồng; từ ngày 12/6/2021 đến ngày 11/7/2021 với số tiền:
1.757.215 (Một triệu bảy trăm năm mươi bảy nghìn hai trăm mười lăm) đồng; từ ngày 12/7/2021 đến ngày 11/8/2021 với số tiền: 1.785.302 (Một triệu bảy trăm tám mươi lăm nghìn ba trăm lẻ hai) đồng; từ ngày 12/8/2021 đến ngày 11/9/2021 với số tiền: 1.473.825 (Một triệu bốn trăm bảy mươi ba nghìn tám trăm hai mươi lăm) đồng; từ ngày 12/9/2021 đến ngày 11/10/2021 với số tiền: 1.387.243 (Một triệu ba trăm tám mươi bảy nghìn hai trăm bốn mươi ba) đồng; từ ngày 12/10/2021 đến ngày 11/11/2021 với số tiền: 1.311.919 (Một triệu ba trăm mười một nghìn chín trăm mười chín) đồng; từ ngày 12/11/2021 đến ngày 12/12/2021 với số tiền: 1.049.512 đồng; phí đóng, cắt điện với số tiền 105.840 (Một trăm lẻ năm nghìn tám trăm bốn mươi) đồng kèm theo thông báo ngừng cung cấp điện ngày 25/12/2021. Nguyên đơn đã nhiều lần gửi thông báo tiền điện, giấy báo tiền điện để yêu cầu bà L thực hiện việc thanh toán. Tuy nhiên, bà L cố tình trì hoãn việc thanh toán theo yêu cầu. Ngày 25/12/2021, Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A đã ngừng cung cấp điện cho phía bị đơn. Cụ thể từ ngày 12/5/2021 đến ngày 25/12/2021 bà L còn nợ tổng số tiền là 10.665.733 đồng (mười triệu sáu trăm sáu mươi năm ngàn bảy trăm ba mươi ba) đồng. Trong đó: tiền sử dụng điện còn nợ là: 10.559.893 đồng và phí đóng cắt điện là: 105.840 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn đến Tòa để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Hồng Hải L phải thanh toán tổng số tiền còn nợ tính đến ngày 25/12/2021 cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 28/9/2022 không thay đổi là 10.665.733 đồng (mười triệu sáu trăm sáu mươi năm ngàn bảy trăm ba mươi ba) đồng. Trong đó: tiền sử dụng điện còn nợ là: 10.559.893 đồng và phí đóng cắt điện là: 105.840 đồng. Do thời gian nợ tiền điện của bà L đã lâu nên nguyên đơn yêu cầu bà L thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và chỉ yêu cầu một mình bà L thực hiện nghĩa vụ thanh toán là có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại các Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 430, Điều 431, Điều 432, Điều 433, Điều 434, Điều 436 và Điều 440 của Bộ Luật dân sự.
[4]. Ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ để chấp nhận.
[5]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Luật phí và lệ phí và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; thì bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[6]. Quyền kháng cáo: Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A và bà Nguyễn Hồng Hải L có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 357, Điều 430, Điều 431, Điều 432, Điều 433, Điều 434, Điều 436, Điều 440 và Điều 468 của Bộ Luật dân sự; Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 180, Khoản 1 và khoản 3 Điều 192, Điều 207, Điều 208, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 5, Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp lại đơn khởi kiện lại vụ án;
Căn cứ vào Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Căn cứ vào Luật phí và lệ phí;
Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A.
Buộc bà Nguyễn Hồng Hải L có trách nhiệm thanh toán cho Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A tổng số tiền còn nợ tính đến ngày 25/12/2021 cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 28/9/2022 không thay đổi là 10.665.733 đồng (mười triệu sáu trăm sáu mươi năm ngàn bảy trăm ba mươi ba) đồng. Trong đó: tiền sử dụng điện còn nợ là: 10.559.893 đồng và phí đóng cắt điện là: 105.840 đồng.
Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Án phí sơ thẩm về dân sự: Bà Nguyễn Hồng Hải L phải chịu số tiền là 533.287 (Năm trăm ba mươi ba nghìn hai trăm tám bảy) đồng. Nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A không phải chịu án phí sơ thẩm về dân sự; hoàn trả lại cho Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh A số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/ 0016904 ngày 04/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Thời hạn kháng cáo đối với bản án là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự; Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014)./.
Bản án 475/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán điện
Số hiệu: | 475/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về