TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 475/2019/DS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 398/2019/TLST-DS ngày 05/7/2019 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2019/QĐXXST-DS ngày 17/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2019/QĐST-DS ngày 07/10/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V; địa chỉ trụ sở: đường L, phường L, Quận Đ, Thành phố Hà Nội; địa chỉ liên lạc: đường C, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Phan Thanh H (hoặc ông Nguyễn Minh T) - Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 06/5/2019).
Ông Phan Thanh H có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Ông Phùng Vi A, sinh năm 1957; địa chỉ: đường D, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh;
Ông Vi A vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiên đề ngày 06/5/2019 của nguyên đơn và quá trình giải quyết vụ án ông Phan Thanh H là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngày 08/02/2017, ông Phùng Vi A có lập Giấy đăng ký vay tiêu dùng, vay kinh doanh cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử đề nghị Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (viết tắt là “Ngân hàng”) vay tiền. Theo đó Ngân hàng đã chấp thuận cho ông Phùng Vi A vay số tiền là 30.000.000 đồng, lãi suất 56%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn, thời hạn vay là 06 tháng, mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh.
Theo thỏa thuận trong hợp đồng, ông Vi A có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và nợ lãi hàng tháng theo quy định được hai bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng giải ngân ngày 08/3/2017. Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân và ông Vi A đã nhận đủ số tiền vay, ông Vi A đã thanh toán cho Ngân hàng được 05 kỳ với số tiền trả nợ gốc là 11.272.742 đồng và tiền lãi là 3.510.274 đồng. Kể từ ngày 08/6/2017, ông Vi A không thanh toán khoản nợ vay của Ngân hàng. Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông Vi A vẫn không thực hiện việc trả nợ. Tính đến ngày 29/10/2019, ông Phùng Vi A còn nợ Ngân hàng số tiền tổng cộng là 60.720.296 đồng, trong đó, nợ gốc là 18.727.258 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 41.993.038 đồng.
Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc ông Phùng Vi A có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền của khoản nợ tính đến ngày 29/10/2019 tổng cộng là 60.720.296 đồng, trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ông Phùng Vi A còn phải thanh toán khoản tiền lãi phát sinh từ ngày 30/10/2019 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo mức lãi suất ông Vi A đã thỏa thuận với Ngân hàng.
Ngân hàng chỉ cho cá nhân ông Phùng Vi A vay tiền, không liên quan đến người khác, do đó Ngân hàng chỉ yêu cầu cá nhân ông Vi A có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ nêu trên.
Tại phiên tòa, Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V do ông Phan Thanh Hà làm đại diện yêu cầu Tòa án buộc ông Phùng Vi A trả số tiền tổng cộng là 60.720.296 đồng (Sáu mươi triệu bảy trăm hai mươi nghìn hai trăm chín mươi sáu đồng), trong đó, nợ gốc là 18.727.258 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 41.993.038 đồng, trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Bị đơn ông Phùng Vi A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V khởi kiện yêu cầu ông Phùng Vi A trả số tiền còn nợ. Theo Kết quả xác minh của Công an Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn ông Phùng Vi A có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ đường D, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện ông Vi A vắng mặt khỏi địa phương. Bị đơn cư trú tại Quận 11 nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11 theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Phùng Vi A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có người đại diện tham gia phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Ông Phùng Vi A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng ông Vi A vắng mặt không rõ lý do cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Như vậy, ông Vi A đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật.
[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:
Căn cứ vào Giấy đăng ký vay tiêu dùng, vay kinh doanh cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử số: 20170307 – 0004221 lập ngày 08/02/2017 được ký giữa ông Phùng Vi A và Ngân hàng; căn cứ vào Bảng liệt kê lịch sử thanh toán của nguyên đơn, có cơ sở để xác định ông Phùng Vi A đã vay của Ngân hàng số tiền là 30.000.000 đồng, lãi suất 56%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Ngân hàng đã giải ngân số tiền vay cho ông Vi A vào ngày 08/3/2017. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ô n g Vi A đã t h a n h t o á n c h o N g â n h à n g được 0 5 k ỳ với tổng số tiền là 14.783.016 đồng, trong đó trả nợ gốc là 11.272.742 đồng và trả tiền lãi là 3.510.274 đồng. Từ ngày 08/6/2017, ông Vi A không thanh toán khoản tiền nợ vay của Ngân hàng. Vì vậy từ ngày 08/6/2017, Ngân hàng đã chuyển khoản nợ của ông Vi A sang nợ quá hạn theo thỏa thuận trong Bộ Điều khoản và điều kiện về vay tiêu dùng, vay kinh doanh cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử được ký giữa ông Vi A và Ngân hàng. Do ông Vi A vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Vi A thanh toán khoản tiền nợ gốc và tiền lãi của Hợp đồng tín dụng là có căn cứ. Tính đến ngày 29/10/2019, ông Phùng Vi A còn nợ Ngân hàng số tiền là 60.720.296 đồng, trong đó, nợ gốc là 18.727.258 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 41.993.038 đồng.
Trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Phùng Vi A nhưng ông Vi A vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ kiện, không giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để bảo vệ quyền lợi của mình, cũng như không có bất cứ sự phản đối nào đối với yêu cầu của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ và không có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Vi A. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp và tài liệu, chứng cứ do Toà án thu thập để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở buộc ông Phùng Vi A có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền của khoản nợ tính đến ngày 29/10/2019 tổng cộng là 60.720.296 đồng, trong đó, nợ gốc là 18.727.258 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 41.993.038 đồng. Ông Vi A còn phải trả tiền lãi tiếp tục phát sinh kể từ ngày 30/10/2019 cho đến khi ông Vi A thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo mức lãi suất mà ông Vi A đã thỏa thuận với Ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần V là tổ chức tín dụng có chức năng kinh doanh tiền tệ. Việc bị đơn chậm thanh toán nợ như trên gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do đó yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Phùng Vi A phải thanh toán toàn bộ khoản nợ trên một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ngân hàng không phải chịu án phí và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí. Ông Phùng Vi A phải chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 186, khoản 2 Điều 227, Điều 244, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V về việc yêu cầu ông Phùng Vi A trả nợ.
2. Buộc ông Phùng Vi A có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền còn nợ tính đến ngày 29/10/2019 là 60.720.296 đồng (Sáu mươi triệu bảy trăm hai mươi nghìn hai trăm chín mươi sáu đồng), trong đó, nợ gốc là 18.727.258 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn là 41.993.038 đồng. Trả một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Phùng Vi A còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa th anh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông Vi A phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
3. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Phùng Vi A phải chịu án phí là 3.036.015 đồng (Ba triệu không trăm ba mươi sáu nghìn không trăm mười lăm đồng).
Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.358.591 đồng (Một triệu ba trăm năm mươi tám nghìn năm trăm chín mươi mốt đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0010339 ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014./
Bản án 475/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 475/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về