Bản án 474/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 474/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1284/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 86/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 03 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1983; Địa chỉ: phường TTN, Quận 12, Thành phố H_có mặt.

Bị đơn:Mai Thị Ánh T, sinh năm: 1983; Địa chỉ: đường số 5, xã VLB, huyện BC, Thành phố H_vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc: “Ly hôn” nguyên đơn là ông Nguyễn Thanh T trình bày giữa ông và bà Mai Thị Ánh T sau khi quen biết, tìm hiểu đã tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng và có đăng ký kết hôn vào năm 2014 (theo giấy chứng nhận kết hôn số 31 do Ủy ban nhân dân phường Tân Thới Nhất, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/03/2014). Giữa ông và bà Mai Thị Ánh T chung sống với nhau có 01 (một) con chung là Nguyễn Mai Cát Tiên, sinh ngày: 09/08/2015.

Năm 2016, do hai bên chung sống không hạnh phúc, thường xảy ra xung đột bất đồng, gây gổ cãi vã nhau nên cả hai đã sống ly thân.

Tại Tòa hôm nay, ông Nguyễn Thanh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Mai Thị Ánh T; Về con chung: có 01 (một) con chung, ông xin giao cho bà Tuyết tiếp tục nuôi con, ông không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án xem xét; Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét.

Về phía bà Mai Thị Ánh T, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã nhiều lần triệu tập bà Mai Thị Ánh T đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhưng bà Mai Thị Ánh T vắng mặt không rõ lý do và không có ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt giấy báo hợp lệ, do đó Tòa án không thể tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật. Do bà Mai Thị Ánh T vắng mặt tại phiên toà (mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ), nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Mai Thị Ánh T là phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của đương sự, cùng các tài liệu có trong hồ sơ, đơn xin ly hôn của ông Tú đối với bà Tuyết, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để xác định đây là vụ kiện Hôn nhân gia đình về việc “Tranh chấp ly hôn”, vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; bà Tuyết có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào các biên bản tống đạt của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh triệu tập bà Tuyết có mặt tại trụ sở Tòa án để tiến hành các bước Tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bà vắng mặt không rõ lý do. Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tống đạt giấy triệu tập bà Tuyết đến trụ sở Tòa án để tham dự hoà giải, dự phiên toà cũng như Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, các giấy triệu tập để trình bày ý kiến, giấy triệu tập hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai và giấy triệu tập tham dự phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh yêu cầu bà Tuyết có mặt tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh để nghe xét xử sơ thẩm vụ án nhưng bà Tuyết vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Cho nên Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm công khai là phù hợp quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử thấy như sau:

Về quan hệ hôn nhân: năm 2014, ông Tú và bà Tuyết sau khi quen biết, tìm hiểu đã tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng và hai bên có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật (đăng ký kết hôn vào năm 2014 (theo giấy chứng nhận kết hôn số 31 do Ủy ban nhân dân phường Tân Thới Nhất, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/03/2014). Việc ông Tú và bà Tuyết tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng là có thật và hai bên có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Quá trình chung sống giữa ông Tú và bà Tuyết có nhiều mâu thuẫn. Năm 2016, do hai bên chung sống không hạnh phúc, thường xảy ra xung đột bất đồng, gây gổ cãi vã nhau nên cả hai đã sống ly thân; ông Tú đã nộp đơn ly hôn đối với bà Tuyết tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh vì ông khẳng định rằng giữa hai người đã không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình về: “Tình nghĩa vợ chồng”; Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình có quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn...”. Nay tại tòa ông Nguyễn Thanh T yêu cầu giải quyết cho ông được ly hôn đối với bà Mai Thị Ánh T. Đối chiếu các quy định trên của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của ông là có cơ sở nên chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T xin được ly hôn đối với bà Mai Thị Ánh T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống với nhau, giữa ông Nguyễn Thanh T và bà Mai Thị Ánh T có 01 (một) con chung là Nguyễn Mai Cát Tiên, sinh ngày: 09/08/2015. Tại tòa hôm nay, ông Nguyễn Thanh T xin giao con chung cho bà Mai Thị Ánh T tiếp tục nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con. Đối với việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì Hội đồng xét xử xét thấy như sau: Hiện con chung đang do bà Mai Thị Ánh T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, lo lắng cho cháu. Bà Mai Thị Ánh T và cháu đang sống chung với nhau nên Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho bà Mai Thị Ánh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật; Theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình thì ông Tú có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở ông Tú thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: ông Nguyễn Thanh T khai không có, nên Tòa không đặt ra để giải quyết; về nợ chung, các nghĩa vụ dân sự khác: ông Nguyễn Thanh T tự khai không có nên Tòa không xét đến.

Về phía bà Tuyết, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào biên bản tống đạt thông báo, các biên bản tống đạt giấy triệu tập hòa giải, cho thấy Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bà Tuyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bà Tuyết không có ý kiến và cũng không đến Tòa để hòa giải, chứng tỏ bà Tuyết không có thiện chí và không có ý thức tôn trọng pháp luật, do vậy nghĩ nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của phía nguyên đơn là phù hợp quy định của pháp luật.

Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) do ông Nguyễn Thanh T chịu.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 63, Điều 146, Điều 147, Điều 203, Điều 220, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 19, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017; Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự;

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Thanh T đối với bà Mai Thị Ánh T.

Xử cho ông Nguyễn Thanh T được ly hôn với bà Mai Thị Ánh T. Giấy chứng nhận kết hôn số 31 do Ủy ban nhân dân phường Tân Thới Nhất, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/03/2014 không còn giá trị pháp lý.

2/ Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Mai Cát Tiên, sinh ngày: 09/08/2015 cho bà Mai Thị Ánh T được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Nguyễn Thanh T không thực hiện việc đóng góp mức cấp dưỡng nuôi con chung; Nếu sau này bà Mai Thị Ánh T có yêu cầu Tòa sẽ giải quyết sau.

Ông Nguyễn Thanh T có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con. Người không nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3/ Về tài sản chung: Do ông Nguyễn Thanh T khai không có nên Tòa không đặt ra để giải quyết.

Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Do ông Nguyễn Thanh T tự khai không có nên Tòa không xét đến.

4/ Về án phí dân sự sơ thẩm là: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) do ông Nguyễn Thanh T chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông Nguyễn Thanh T đã nộp là: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0080540 ngày 26/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Thanh T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích cho đương sự (người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự) biết về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 474/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:474/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;