TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 47/2023/HS-ST NGÀY 22/08 2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2023/TLST-HS ngày 13/7/2023 theo Quyết định đua vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 46/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Đình T, sinh ngày 23/5/1992 tại huyện B, tỉnh H. Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Căn cước công dân số: 00209200xxx do Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 14/4/2023; con ông Nguyễn Đình TI (đã chết) và bà Trần Thị N; vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/4/2023, hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1974, nơi cư trú: Tổ B, thị trấn V, huyện B, tỉnh H, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1981, nơi cư trú: Tổ F, thị trấn V, huyện B, tỉnh H. Có mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Quang L1 - Có mặt
+ Chị Nguyễn Thị L2 - Có mặt
+ Anh Trần Văn Q - Có mặt + Anh Nguyễn Khắc V - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 27/4/2023, Công an xã T, huyện B, tỉnh H tiếp nhận nguồn tin của ông Nguyễn Quang L1, sinh năm 1964, nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện B, tỉnh H qua điện thoại về việc: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/4/2023 đối tượng Nguyễn Đình T, sinh năm 1992, nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh H có hành vi cầm dao đuổi, dọa chém ông L1 tại khu vực đồi chè của nhà T. Sau khi tiếp nhận nguồn tin của công dân, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Công an xã, để đảm bảo kịp thời ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng T, bảo vệ tính mạng, tài sản của công dân, Công an xã T đã báo cáo vụ việc với lãnh đạo Công an huyện B, tỉnh H, đồng thời phân công tổ công tác Công an xã gồm đồng chí Nguyễn Văn T2 - Trưởng Công an xã và đồng chí Nguyễn Thành T - Phó Trưởng Công an xã trực tiếp đến hiện trường và tiến hành các biện pháp cấp bách tại hiện trường theo quy định của pháp luật. Quá trình tổ công tác Công an xã T có mặt tại hiện trường đã bị đối tượng T dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực cản trở Tổ công tác thực hiện công vụ, T dùng dao chém về phía đồng chí T2 làm đồng chí T2 bị xây xước da tại mu bàn tay trái, nhận thấy đối tượng T có hành vi hung hãn, dùng hung khí nguy hiểm nên Tổ công tác đã huy động thêm lực lượng và tiến hành bắt quả tang đối với Nguyễn Đình T về hành vi Chống người thi hành công vụ, thu giữ vật chứng tại hiện trường, đồng thời bàn giao Tuyến và chuyển toàn bộ tài liệu, đồ vật liên quan đến Công an huyện B, tỉnh H để điều tra, giải quyết vụ việc theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B Tuyến khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/4/2023, Tuyến trên đường đi chơi về đến vườn chè cách nhà T khoảng 100m thì gặp ông Nguyễn Quang L1, sinh năm 1964, nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh H, do có mâu thuẫn với ông L1 từ trước nên T lấy cớ gây sự, chửi bới ông L1, lúc đó T nhìn thấy vườn quế cạnh đường có 01 con dao chuôi gỗ, lưỡi dao bằng kim loại nên đã nhặt con dao đuổi theo dọa đánh ông L1, thấy vậy ông L1 đã bỏ chạy vào trong vườn chè của nhà mình, T đuổi theo khoảng 300m thì dừng lại không đuổi nữa mà quay về nhà. Khoảng 30 phút sau, khi T đang ở nhà thì có anh T2, anh L mặc trang phục Công an nhân dân mang theo Giấy mời, mời T đến Trụ sở Công an xã để làm việc, làm rõ vụ việc theo tin tố giác của ông L1, lúc đó T đang cầm con dao mà trước đó T dọa đuổi chém ông L1 trên tay đứng trước cửa nhà quát tháo, chửi bới, đe dọa bằng lời nói “Chúng mày đến đây làm gì, về đi không tao chém chết”. Khi đó, anh T2 và anh L có yêu cầu T bỏ dao xuống nhung T không chấp hành và cầm dao bỏ đi sang nhà chị Nguyễn Thị C là chị gái ruột của T, cách nhà T khoảng 10m, anh T2 và anh L tiếp tục đi theo vận động và thuyết phục Tuyến chấp hành yêu cầu làm việc của Công an xã nhưng T vẫn không chấp hành mà còn chửi bới, đồng thời T cầm dao vung về hướng anh T2 đang đứng khiến con dao chém sượt qua mu bàn tay trái của anh T2 gây xước da tay, sau đó T cầm dao bỏ chạy lên đồi chè, thấy vậy, tổ công tác Công an xã đã huy động thêm lực lượng và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đối với T về hành vi Chống người thi hành công vụ.
Quá trình điều tra, T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tuy nhiên nhận thấy T có nhiều biểu hiện bất thường về tinh thần khi lấy lời khai, ngày 19/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định số 121, trưng cầu Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc giám định nội trú pháp y tâm thần đối với Nguyễn Đình T.
Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 77/KLGĐ, ngày 09/6/2023 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc, kết luận:
1. Nguyễn Đình T, sinh năm 1992, nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh H không bị bệnh tâm thần.
2. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vào các ngày 18/4/2023 và ngày 27/4/2023 Nguyễn Đình T không bị bệnh tâm thần, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.
3. Hiện tại (thời điểm giám định) Nguyễn Đình T không bị bệnh tâm thần, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.
Các giám định viên nhất trí với kết luận giám định, không có ý kiến khác.
Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 50/CT-VKSBQ ngày 13 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh H truy tố Nguyễn Đình T về tội "Chống người thi hành công vụ", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố đối với Nguyễn Đình T về tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Về điều luật và hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330; Điều 38, Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/4/2023. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T2 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 (một) con dao chuôi gỗ, lưỡi kim loại, có tổng chiều dài 35,5 cm; 01 (một) áo phông cộc tay màu xanh và 01 (một) quần đùi kẻ màu trắng - đen, là công cụ, phương tiện phạm tội và đồ vật không còn giá trị sử dụng.
Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang đã truy tố, nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, làm người công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[11 Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[21 Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi liên quan, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T2, có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy sự vắng của họ không làm ảnh hưởng đến nội dung của vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tụng chung.
[3] Căn cứ định tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 27/4/2023, tại khu vực gần nhà bị cáo T thuộc thôn N, xã T, huyện B, tỉnh H bị cáo T đã có hành vi chửi bới, đe dọa dùng vũ lực “Chúng mày đến đây làm gì, về đi không tao chém chết” đối với đồng chí Nguyễn Văn T2 và đồng chí Nguyễn Thành L đều là cán bộ công an xã T, cả hai đồng chí đều đang mặc trang phục Công an nhân dân khi đang thi hành công vụ nhằm ngăn chặn ngay hành vi phạm tội có thể tiếp tục xảy ra của bị cáo, ổn định tình hình, an ninh trật tự trên địa bàn xã T; ngoài ra bị cáo T còn dùng vũ lực sử dụng 01 con dao chuôi gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, có tổng chiều dài 35,5 cm chém sượt qua mu bàn tay đồng chí Nguyễn Văn T2 gây xước da tay. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục 06-09); lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Bút lục 78-79, 80-81); lời khai người làm chứng (Bút lục 82-93); Bản ảnh vật chứng (Bút lục 42-43); Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ và bản ảnh khám nghiệm hiện trường (Bút lục 46-54) và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, do đó, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Nguyễn Đình T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cản trở, chửi bới, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ, công vụ là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước về quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại Điều 330 của Bộ luật hình sự.
[4] Điều 330 của Bộ luật hình sự Tội chống người thi hành công vụ có quy định:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm .... ” Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Nguyễn Đình T có hành vi cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ, hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự như đã được viện dẫn. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh H truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Từ những nhận định nêu trên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân biết tuân thủ pháp luật, có ích cho gia đình và xã hội.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra và trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Văn T2 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng là 01 (một) con dao chuôi gỗ, lưỡi kim loại, có tổng chiều dài 35,5 cm; 01 (một) áo phông cộc tay màu xanh và 01 (một) quần đùi kẻ màu trắng - đen là công cụ bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội và là những đồ vật không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 330, Điều 38, Điều 50, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/4/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) con dao chuôi gỗ, lưỡi kim loại, có tổng chiều dài 35,5 cm; 01 (một) áo phông cộc tay màu xanh và 01 (một) quần đùi kẻ màu trắng - đen.
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan công an huyện B và Chỉ cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày 19/7/2023).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 47/2023/HS-ST về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 47/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về