Bản án 47/2021/HS-ST ngày 07/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 47/2021/HS-ST NGÀY 07/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2021/HSST ngày 24 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Tô Nhật T, sinh ngay 24/6/2001. Nơi sinh: Tỉnh Thái Bình. Nơi đăng ký hộ khẩu thưởng trú: Thôn H, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: Thuê nhà trọ tại ngõ 849, đường L, tổ 16, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:11/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Tô Hồng P và bà Phạm Thị T; vợ, con: Chưa có; nhân thân: Từ tháng 02 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020 bị cáo tham gia nghĩa vụ quân sự; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 11/12/2020 đến ngày 17/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay.

2. Vũ Minh H, sinh ngay 24/7/1998. Nơi sinh: Tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Số nhà 13, ngõ 83, đường N, tổ 4, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Văn B và bà Phạm Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 11/12/2020 đến ngày 17/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1999.

Nơi ĐKHKTT: Số nhà 50B, tổ 4, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở: Thuê nhà trọ tại ngõ 849, đường L, tổ 16, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Lê Hữu T, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Thôn L, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973.

i cư trú: Số nhà 05/06, tổ 04, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

2. Chị Phạm Thị D, sinh năm 1961.

i cư trú: Tổ 04, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

3. Anh Nguyễn Đắc L, sinh năm 1978.

Nơi cư trú: Thôn S, xã C, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

4. Anh Vũ Văn B, sinh năm 1971.

Nơi cư trú: Số nhà 13, ngõ 83, đường N, tổ 4, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt các bị cáo và chị D, vắng mặt những người tham gia tố tụng khác).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 00 phút ngày 11/12/2020 Tô Nhật T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 17B9 - 111.11 từ chỗ ở ra khu vực Cống Trắng, phường Q, thành phố B mục đích mua ma túy để bán kiếm lời. Tại đây T gặp một người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ hỏi mua 300.000 đồng ma túy, người nam giới nhận tiền và đưa cho T 01 túi nilon trong suốt bên trong có 03 gói hêrôin. T điều khiển xe mô tô đến nhà Vũ Minh H, khi gặp H, T nói: “anh đi bán ma túy với em nhé”, H trả lời “ừ, anh em mình đi”. Trên đường đi T đưa cho H 03 gói hêrôin và nói với H “nếu có khách mua sẽ bán 200.000 đồng/01 gói”. H nhận số ma túy T đưa và cất vào túi quần. Khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày khi T và H đi trên đường S2, Thôn S, xã C, thành phố B thì thấy Lê Hữu T đang đứng ở ven đường vẫy tay. T điều khiển xe đến chỗ T đứng, T hỏi T và H “có ma túy hêrôin không bán cho anh 200.000 đồng”. H nói “có, đưa tiền đây”, T đưa cho H 200.000 đồng gồm hai tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng có số seri cuối lần lượt là 95 và 97, H nhận tiền và lấy từ trong túi quần 01 gói ma túy bán cho T, khi T vừa nhận gói ma túy H đưa thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Đắc L, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Thái Bình kiểm tra người Lê Hữu T thu 01 gói ma túy (niêm phong ký hiệu M1), T khai là ma túy T vừa mua của T và H với giá 200.000 đồng để sử dụng. Kiểm tra người H thu giữ quản lý số tiền 200.000 đồng là tiền T và H vừa bán cho T. Quản lý của H 01 túi ni lon đựng 02 gói hêrôin, H khai là ma túy của T và H mang theo mục đích để bán kiếm lời (niêm phong 02 gói ma túy trong phong bì dán kín ký hiệu M2), 01 ví màu xanh bên trong có số tiền 3.600.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, 01 điện thoại Iphone màu vàng. Quản lý của T 01 điện thoại Nokia màu đen. Kiểm tra xe máy Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 17B9 - 111.11 không phát hiện thu giữ gì.

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô Nhật T không phát hiện thu giữ gì. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Minh H cơ quan Công an thu giữ 01 cân điện tử màu trắng, 01 túi ni lon trong suốt bên trong đựng 20 vỏ túi nilon trong suốt.

Tại bản kết luận giám định số 428/KLGĐMT-PC09 ngày 12/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,0430 gam. Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1872 gam”.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi vi phạm của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số 49/CT-VKSTPTB ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố các bị cáo Tô Nhật T và Vũ Minh H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt:

1. Áp dụng khoản 1 khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo Tô Nhật T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/12/2020.

Phạt bổ sung từ 07 đến 10 triệu đồng để sung ngân sách nhà nước.

2. Áp dụng khoản 1 khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50;

Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo Vũ Minh H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/12/2020.

Phạt bổ sung từ 05 đến 07 triệu đồng để sung ngân sách nhà nước.

* Về xử lý vật chứng:

- Tch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 cân điện tử màu trắng, 01 túi nilon trong suốt bên trong đựng 20 vỏ túi nilon trong suốt.

- Trả cho bị cáo Vũ Minh H 01 ví màu xanh, số tiền 3.600.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, 01 điện thoại Iphone màu vàng. Trả cho bị cáo Tô Nhật T 01 điện thoại Nokia màu đen nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng các bị cáo bán ma túy mà có.

- Trả cho chị Nguyễn Thị Ngọc D chiếc máy Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 17B9 - 111.11.

Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại hay có ý kiến gì.

[2] Về căn cứ kết tội đối với các bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.

- Biên bản kiểm tra và quản lý điện thoại.

- Bản kết luận giám định số 428/KLGĐMT-PC09 ngày 12/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Biên bản ghi lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, của người chứng kiến.

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 20 phút phút ngày 11/12/2020, tại khu vực đường S2, Thôn S, xã C, thành phố B, tỉnh Thái Bình, tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình bắt quả tang Tô Nhật T và Vũ Minh H có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,0430 gam cho Lê Hữu T giá 200.000 đồng. Ngoài ra Tô Nhật T và Vũ Minh H còn cất giấu 0,1872 gam ma túy, loại hêrôin, mục đích để bán kiếm lời.

nh vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251 Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

...

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội.

[4] Xét vai trò các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Bị cáo Tô Nhật T bỏ tiền ra mua ma túy, rủ rê bị cáo Vũ Minh H cùng nhau đi bán ma túy kiếm lời nên bị cáo T giữ vai trò chính. Bị cáo Vũ Minh H tiếp nhận ý chí, đồng ý và cầm ma túy cùng Tô Nhật T đi tìm người mua ma túy để bán kiếm lời nên giữ vai trò thứ hai.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T có thời gian tham gia quân đội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

[6] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của các bị cáo và phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

- Về hình phạt bổ sung: Mục đích các bị cáo mua ma túy để bán kiếm lời, phạt bổ sung mỗi bị cáo 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo Tô Nhật T có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Số ma túy còn lại sau giám định 0,1576 gam là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, 01 cân điện tử màu trắng, 01 túi nilon trong suốt bên trong đựng 20 vỏ túi nilon trong suốt không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 200.000 đồng các bị cáo bán ma túy mà có cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho các bị cáo gồm: Trả cho bị cáo Vũ Minh H 01 ví màu xanh, số tiền 3.600.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, 01 điện thoại Iphone màu vàng. Trả cho bị cáo Tô Nhật T 01 điện thoại Nokia màu đen nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Chiếc mô tô Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 17B9 - 111.11 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Ngọc D, chị D cho bị cáo Tô Nhật T mượn chiếc xe nhưng không biết T sử dụng xe đi mua, bán ma túy nên trả lại chiếc xe cho chị D.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Tài liệu điều tra xác định bị cáo Tô Nhật T mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ tại khu vực C, phường Q, thành phố B, nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để xử lý.

[9] Các vấn đề khác:

- Đối với Lê Hữu T có hành vi mua ma túy của Tô Nhật T và Vũ Minh H mục đích để sử dụng cho bản thân. Do khối lượng ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, T chưa lần nào bị xử lý về hành vi liên quan đến ma túy nên cơ quan Điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T bằng hình thức cảnh cáo.

- Đối với Nguyễn Tiến V là người được T thuê chở xe ôm, không biết việc T đi mua ma túy nên cơ quan Điều tra không có hình thức xử lý đối với Vinh.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố các bị cáo Tô Nhật T và Vũ Minh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

- Đối với bị cáo Tô Nhật T: Áp dụng khoản 1 khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/12/2020.

Phạt bổ sung 05 (năm) triệu đồng để sung ngân sách nhà nước.

- Đối với bị cáo Vũ Minh H: Áp dụng khoản 1 khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/12/2020.

Phạt bổ sung 05 (năm) triệu đồng để sung ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là 0,1576 gam trong phong bì niêm phong số 428/KLGĐMT-PC09 ngày 12/12/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. 01 cân điện tử màu trắng, 01 túi nilon trong suốt bên trong đựng 20 vỏ túi nilon trong suốt.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng các bị cáo bán ma túy mà có.

- Trả lại bị cáo Vũ Minh H 01 ví màu xanh, số tiền 3.600.000 đồng, 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, 01 điện thoại Iphone màu vàng. Trả lại bị cáo Tô Nhật T 01 điện thoại Nokia màu đen nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1999. Nơi ĐKHKTT: Số nhà 50B, tổ 4, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: Thuê nhà trọ tại ngõ 849, đường L, tổ 16, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình chiếc xe mô tô Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 17B9 - 111.11.

(Vật chứng của vụ án Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 24/3/2021).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 47/2021/HS-ST ngày 07/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;