Bản án 47/2021/HNGĐ-ST ngày 08/07/2021 về ly hôn và nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L - TỈNH Y

 BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

 Ngày 08 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 28/2021/TLST- HNGĐ ngày 22- 02-2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 23-6-2021 giữa;

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977- Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Y

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975- Có mặt Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Y

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và biên bản ghi lời khai ngày 01 tháng 3 năm 2021 nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau ngày 02-6-1996 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do sau khi xây nhà xong nợ nần nhiều, chị H phải đi làm lấy tiền trả nợ. Anh T ở nhà không tu trí làm ăn, hay rượu chè, bán các tài sản trong gia đình,về nhà đánh chửi chị H. Mặc dù chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi. Anh chị sống ly thân từ đầu năm 2019. Nay chị H xác định tình cảm không còn đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị H và anh T có hai con chung tên là Nguyễn Mạnh D, sinh ngày 17-5-1998 và Nguyễn Thu H1, sinh ngày 03-9-2005. Cháu D đã trên 18 tuổi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh T có nguyện vọng nuôi cháu H1 chị đồng ý, chị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu H1 1.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung chị H và anh T có những tài sản sau: 01 nhà xây cấp III, 80 m2, xây từ năm 2015, trị giá 150.000.000 đồng, xây trên thửa đất của chị gái chồng tên là Nguyễn Thị N; 01 thửa đất có chiều mặt đường quốc lộ 70 là 18 m, chiều sâu 20 m, diện tích 360 m2, trị giá 300.000.000 đồng đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 xe mô tô hon da (ĐRem Thái), trị giá 7.000.000 đồng. Ngoài ra còn một số đồ dùng sinh hoạt gia đình không tính giá trị. Chị H yêu cầu được chia 06 m đất chiều mặt đường Quốc Lộ 70, chiều sâu 20 m, diện tích 120 m2, trị giá 100.000.000 đồng. Tài sản còn lại để anh T sử dụng.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 01-3-2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn T trình bày: Anh T và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau ngày 02-6-1996 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị H đi làm ăn không gửi tiền về cho anh T nuôi con ăn học. Anh T khuyên bảo nhiều lần nhưng chị H không thay đổi. Anh T xác định tình cảm với chị H vẫn còn, đề nghị Tòa án hòa giải về đoàn tụ.

Về con chung: Anh T và chị H có hai con chung tên là Nguyễn Mạnh D, sinh ngày 17-5-1998 và Nguyễn Thu H1, sinh ngày 03-9-2005. Cháu D đã trên 18 tuổi không yêu cầu Tòa án giải quyết, cháu H1 còn nhỏ anh T có nguyện vọng nuôi cháu H1, anh yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi cháu H1 1.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Anh T và chị H có những tài sản sau: 01 nhà xây cấp III, 80 m2, xây năm 2015, trị giá 150.000.000 đồng, xây dựng trên thửa đất của chị gái anh T tên là Nguyễn Thị N, chiều mặt đường quốc lộ 70 là 5m, chiều sâu 20 m, diện tích 100 m2; 01 thửa đất có chiều mặt đường quốc lộ 70 là 18 m, chiều sâu 20 m, diện tích 360 m2, trị giá 300.000.000 đồng, đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 xe mô tô (ĐRem Thái), trị giá 2.000.000 đồng. Ngoài ra còn một số đồ dùng sinh hoạt gia đình không tính giá trị. Anh T không nhất trí chia tài sản cho chị H.

Ngày 25-4-2021 Tòa án nhân dân huyện L đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ nhưng anh T không hợp tác và không cho cơ quan tiến hành đo đạc nên không xem xét, thẩm định tại chỗ được đối với các tài sản chung của chị H và anh T.

Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh T để tiến hành hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tại phiên tòa hôm nay phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại phiên tòa, thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82 và 83 luật Hôn nhân và gia đình; điều 147, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 xử: Chị H được ly hôn anh T; giao cháu H1 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con; chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

{1} Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của Tòa án nhân dân huyện L là đúng thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Áp dụng khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt của nguyên đơn.

{2} Về tư cách người tham gia tố tụng: Tòa án xác định đúng tư cách của người tham gia tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ án.

{3} Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau ngày 02-6-1996, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu. Đây là hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do sau khi xây nhà xong nợ nần nhiều, chị H phải đi làm lấy tiền trả nợ. Anh T ở nhà không tu trí làm ăn, hay rượu chè, bán các tài sản trong gia đình, về nhà đánh chửi chị H. Anh Chị đã sống ly thân từ đầu năm 2019. Trong quá trình giải quyết vụ án chị H xác định tình cảm không còn đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh T. Tại phiên tòa chị H vắng mặt nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu này. Về phía anh T tại phiên tòa anh xác định tình cảm vẫn còn, nếu chị H kiên quyết xin ly hôn anh đồng ý. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn giữa chị H và anh T là trầm trọng. đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ, được chấp nhận. Áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử chị H được ly hôn anh T.

{4} Về con chung: Chị H và anh T có hai con chung tên là Nguyễn Mạnh D, sinh ngày 17-5-1998 và Nguyễn Thu H1, sinh ngày 03-9-2005. Cháu D trên 18 tuổi đã trưởng thành chị H, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu H1, chị H phải cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Tại phiên tòa chị H vắng mặt nhưng chị đồng ý để anh T nuôi cháu H1 và chị có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu H1 1.000.000 đồng/tháng. Xét thấy: Yêu cầu của anh T được nuôi cháu H1 có căn cứ, phù hợp với nguyện vọng của cháu H1, phù hợp pháp luật, phù hợp với thực tế được chấp nhận. Áp dụng các Điều 81, 82 và 83 luật hôn nhân và gia đình xử: Giao cháu H1 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H phải cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng.

{5} Về tài sản chung: Ngày 14-6-2021 chị H có đơn đề nghị rút yêu cầu chia tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút yêu cầu này. Áp dụng Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự: Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia tài sản chung.

{6} Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Chị H đã nộp tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 4.500.000 đồng. Tòa án chưa tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ được, nay chị H rút yêu cầu chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 4.500.000 đồng được trả lại cho chị H.

{7} Về án phí:

- Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật - Chị H, anh T không phải chịu án phí chia tài sản chung.

{8} Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 53, 56, 57, 81, 82 và 83 luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 147, khoản 1 Điều 227, 244, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1- Về quan hệ hôn nhân xử: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn T

2- Về con chung xử: Giao cháu Nguyễn Thu H1, sinh ngày 03-9-2005 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H phải cấp dưỡng nuôi cháu H1 1.000.000 đồng (một triệu đồng)/tháng, kể từ tháng 8-2021 cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con không ai được ngăn cản.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn thi hành án mà người phải thi hành án chưa thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3- Về tài sản chung: Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia tài sản chung.

4- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Trả lại cho chị H số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng). Xác nhận chị H đã nhận 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

5- Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con. Nhưng được trừ vào số tiền 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số: AA/2017/0008479 ngày 22-02-2021 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện L. Chị H được hoàn lại 6.900.000 đồng (sáu triệu chín trăm nghìn đồng).

- Chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Văn T không phải chịu án phí chia tài sản chung.

6- Quyền kháng cáo:

- Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

- Anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 47/2021/HNGĐ-ST ngày 08/07/2021 về ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;