Bản án 47/2021/DS-ST ngày 29/04/2021 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 47/2021/DS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 374/2020/TLST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu O – Sinh năm 1966 Có mặt).

Địa chỉ: Ấp xã huyện C tỉnh An Giang.

Bà O ủy quyền cho ông Nguyễn Văn P – Sinh năm 1983 theo văn bản ủy quyền ngày 12/10/2020(Có mặt) Địa chỉ: Số 477A/24 đường Q khóm Bình phường B thành phố L tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc V – Sinh năm 1975 (Có mặt).

Trần Thị Anh Đ – Sinh năm 1959 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Cùng ngụ ấp xã huyện C tỉnh An Giang.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Hồ Thị Kim S – Sinh năm 1960 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp xã huyện C tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện tờ tự khai bà Trần Thị Thu O và ông Nguyễn Văn P đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn b à Trần Thị Thu O trình bày, do chỗ quen biết với chị em bà Trần Thị Anh Đ, Trần Thị Ngọc V. Bà V không thân với bà O nhưng muốn tham gia chơi hụi do bà O làm chủ nên bà O yêu cầu bà đã bảo lĩnh cho bà V thì bà O mới cho. Bà đã đồng ý nên bà O cho bà V tham gia chơi hụi cụ thể như sau: Dây hụi 3.000.000đ/tháng khui ngày 01/11/2018âl có 27 phần bà V tham gia 01 phần và hốt lần đầu tiên được 64.000.000đ. Sau khi hốt bà V không chầu hụi chết 26 lần là 78.000.000đ.

Dây hụi 3.000.000đ/tháng khui ngày 14/11/2014âl có 28 phần; Dây hụi 3.000.000đ khui ngày 11/9/2014 âl có 28 phần; Dây hụi 3.000.000đ khui ngày 16/8/2017 âl có 28 phần;

Dây hụi ngày bà V tham gia 20 phần mỗi ngày đóng 200.000đ có 60 phần và hốt hết nhưng bà V chầu hụi chết không đủ. Ngoài ra, bà V còn nợ hụi chết 3.000.000đ xã 10 kỳ = 30.000.000đ. ổng số tiền bà V thiếu các dây hụi này là 170.000.000đ Bên cạnh đó trong quá trình chơi hụi bà V có nhờ bà Hồ Thị Kim S tham gia chơi dùm 01 dây hụi và nợ bà O 30.000.000đ. Bà S có làm biên nhận nợ và ghi rõ chơi hụi dùm cho bà V. Bà O yêu cầu bà V trả số nợ này không yêu cầu bà S trả.

Tổng cộng bà V còn nợ bà O tiền hụi là 78.000.000đ + 170.000.000đ + 30.000.000đ = 278.000.000đ.

Hiện nay các dây hụi do bà O làm chủ đã mãn. Bà O đã nhiều lần đòi nhưng không được nên bà đã yêu cầu Ban ấp Tấn Lợi giải quyết vào các ngày 21/9/2020 và 01/10/2020. Tại đây bà V thừa nhận nợ bà O tiền hụi và xin được trả dần nhưng bà O không đồng ý.

Nay bà O yêu cầu bà Trần Thị Ngọc V, Trần Thị Anh Đ liên đới trả số tiền hụi 278.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Trần Thị Ngọc V, bà Trần Thị Anh Đ đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án của bà O và triệu tập hợp lệ để giải quyết nhưng bà đã không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải nên không ghi ý kiến và hòa giải được.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hồ Thị Kim S đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án của bà O và triệu tập hợp lệ để giải quyết nhưng bà S không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải nên không ghi ý kiến và hòa giải được.

Tại phiên tòa, bà Trần Thị Thu O, ông Nguyễn Văn P đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Thu O đã rút lại yêu cầu bà Trần Thị Anh Đ liên đới với bà V để trả nợ cho bà còn yêu cầu khác vẫn giữ nguyên.

Bà Trần Thị Ngọc V trình bày bà có chơi hụi do bà O làm chủ tổng cộng bà nợ bà O 170.000.000đ theo như biên bản hòa giải của ấp Tấn Lợi xã ấn Mỹ trong đó có phần bà S chơi hụi dùm bà. Việc bà O trình bày bà nợ 278.000.000đ là không đúng, vì tại Ban ấp Tấn Lợi xã ấn Mỹ, bà O chỉ yêu cầu bà trả 170.000.000đ của tất cả các dây hụi nhưng bà không có cơ sở hay chứng cứ gì chứng minh việc này. Bà không đồng ý theo yêu cầu của bà O chỉ đồng ý trả số tiền hụi 170.000.000đ và xin trả dần mỗi tháng 2.000.000đ.

Bà Hồ Thị Kim S trình bày bà với bà V là bạn thân do bà V nhờ bà chơi hụi 3.000.000đ của bà O dùm cho bà V. Bà đã hốt hụi và giao tiền cho bà V xong có thiếu lại tiền hụi chết 10 lần của bà O là 30.000.000đ. Bà có làm biên nhận nợ với bà O, trong đó ghi rõ đây là nợ hụi của bà V nhờ bà chơi dùm. Việc tranh chấp nợ hụi giữa bà V với bà O bà không có ý kiến gì.

Bà Trần Thị Anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng bà đã vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán Hội đồng xét xử vụ án thư ký và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định. Về ý kiến giải quyết:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thu O.

Buộc bà Trần Thị V có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị Thu O số tiền 278.000.000đ.

Đình chỉ yêu cầu của bà O yêu cầu bà Trần Thị Anh Đ có nghĩa vụ liên đới với bà V trả cho bà O 278.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về hình thức: Bà Trần Thị Thu O khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị Ngọc V, Trần Thị Anh Đ trả 278.000.000đ. Bà Trần Thị Ngọc V, bà Trần Thị Anh Đ có nơi cư trú ấp ấn Lợi, xã ấn Mỹ huyện Chợ Mới tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bị đơn bà Trần Thị Anh Đ đ được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng bà đã vắng mặt không lý do chính đáng. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Trần Thị Anh Đ là có căn cứ.

Tại phiên tòa bà Trần Thị Thu O rút lại yêu cầu đối với bà Trần Thị Anh Đ liên đới với bà Trần Thị Ngọc V trả tiền cho bà. Hội đồng xét xử xét thấy sự tự nguyện này không trái với đạo đức xã hội phù hợp với quy định của pháp luật và không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Căn cứ Điều 217 244 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thu O.

[2]- Về nội dung: Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa bà Trần Thị Thu O, ông Nguyễn Văn P đại diện theo ủy quyền của bà O yêu cầu bà Trần Thị Ngọc V trả 278.000.000đ tiền hụi. Bà V không đồng ý theo yêu cầu của bà O chỉ đồng ý trả 170.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy trên cơ sở biên bản hòa giải của Ban ấp Tấn Lợi xã ấn Mỹ huyện Chợ Mới tỉnh An Giang giải quyết vào các ngày 21/9/2020 và 01/10/2020 và giấy hốt hụi ngày 04/11/2018 âl biên bản xác minh đối với ông Nguyễn Tuấn D là trưởng ấp Tấn Lợi xã ấn Mỹ người trực tiếp hòa giải việc tranh chấp nợ hụi giữa bà O với bà V trong các ngày 21/9/2020 và 01/10/2020 đã xác định bà O chỉ tranh chấp phần không có biên nhận để làm cơ sở còn các khoản nợ khác có biên nhận thì không yêu cầu. Phía bà V thừa nhận đã tham gia các dây hụi như bà O trình bày và cũng không có cơ sở hay chứng cứ gì chứng minh. Do đó có cơ sở xác định số tiền hụi mà bà V còn nợ bà O là 278.000.000đđ và xét buộc bà V phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền này cho nguyên đơn là phù hợp với Điều 471 Bộ luật dân sự.

Do bà O không yêu cầu tính lãi nên Hội Đồng xét xử không đề cập đến.

[2.1]- Đối với yêu cầu của bà O buộc bà Trần Thị Anh Đ có nghĩa vụ liên đới với bà V trả số tiền hụi trên, bà O đã rút lại yêu cầu này. Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu của bà O đối vơi bà Đ.

[2.2]- Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hồ Thị Kim S Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ biên nhận do bà O cung cấp và tại phiên tòa bà S thừa nhận số tiền thiếu 30.000.000đ là do bà chơi hụi dùm cho bà V còn thiếu chưa chầu, bà V cũng thừa nhận số nợ này là của bà và bà O cũng không yêu cầu bà S trả số nợ này mà chỉ yêu cầu bà V trả. Do đó Hội đồng xét xử không đề cập đến trách nhiệm của bà S.

[2.3]- Đối với yêu cầu của bà V chỉ đồng ý trả 170.000.000đ và xin được trả dần mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi hết nợ bà O không đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định của pháp luật đương sự phải chứng minh để bảo vệ quyền lợi ch hợp pháp của mình nhưng tại phiên tòa bà V không có cơ sở hay chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu của mình trong khi đó như đã phân tích trên căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ lời xác nhận của ông D trưởng ấp Tấn Lợi xã ấn Mỹ cùng với việc bà V thừa nhận tham gia các dây hụi đã tham gia như bà O trình bày và phù hợp với các chứng cứ do bà O cung cấp. Bên cạnh đó số nợ này bà thiếu đã lâu nay lại kéo dài thời gian trả nợ làm thiệt hại đến quyền lợi của bà O. Do đó yêu cầu của bà V không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]- Về án phí : Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

Bà Trần Thị Ngọc V phải chịu án ph dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bà Trần Thị Thu O được nhận lại tiền tạm ứng án ph đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 26, 35, 39, 144, 147, 217, 227, 244 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Điều 471 Bộ luật dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án ph lệ ph òa án.

Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thu O.

Buộc bà Trần Thị Ngọc V có nghĩa vụ trả cho bà O số tiền 278.000.000đ (Hai trăm bảy mươi tám triệu đồng).

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thu O đối với yêu cầu bà Trần Thị Anh Đ liên đới với bà Trần Thị Ngọc V trả số nợ 278.000.000đ.

Kể từ ngày ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Án phí dân sơ thẩm bà Trần Thị Ngọc V phải chịu 13.900.000đồng (Mười ba triệu chín trăm ngàn đồng).

Bà Trần Thị Thu O được nhận lại tiền tạm ứng án ph đã nộp là 6.950.000đ (Sáu triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng), theo biên lai thu số 0013712 ngày 22/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 47/2021/DS-ST ngày 29/04/2021 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:47/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;