Bản án 47/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2020/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXXST-HS ngày 12/11/2020 đối với bị cáo:

Lương Thị Thúy V, sinh năm 1992 tại Bình Phước.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, khu phố Hưng Thịnh, phường Hưng Chiến, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Tạm trú tại: Tổ 5, ấp Hưng Thịnh, xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn:6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Ngọc B (đã chết) và bà Nguyễn Thị Bé T; Bị cáo có chồng tên Trần Thanh T, có 02 con chung, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013. Hiện bị cáo đang sống chung như vợ chồng với anh Nguyễn Trần Viết M và có 01 con chung sinh năm 2019; Bị cáo có 01 tiền án: Tại Bản án số 79/2019/HSST ngày 30/8/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, xử phạt V 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 01 năm kể từ ngày tuyên án; Tiền sự: Không.

Bị cáo được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Chị Hồ Thùy D, sinh năm 1995. Trú tại tổ 8, khu phố Phú Sơn, phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước “Vắng mặt” 2. Anh Vũ Ngọc T, sinh năm 1988. Trú tại tổ 3, khu phố 5, thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. “Vắng mặt” 3. Ông Vũ Đìnhh C, sinh năm 1961. Trú tại tổ 9, ấp 3B, xã Minh Hưng, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. “Vắng mặt” Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Thượng Quang Vi, sinh năm 1975. Trú tại: Tổ 5, khu phố Phú Thuận, phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Thị Thúy V là người không có nghề nghiệp ổn định, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 06/12/2019 đến ngày 19/01/2020, Vi đã 03 lần lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 06/12/2019, Lương Thị Thúy V một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93H7-8017 đi từ nhà đến Chợ Bình Long để mua sữa. Tuy nhiên, do không đủ tiền nên V nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, V đi đến đường Nguyễn Huệ đoạn thuộc tổ 8, khu phố Phú Sơn, phường An Lộc, thị xã Bình Long thì nhìn thấy bên phải đường có một quán nước không biển hiệu của chị Hồ Thùy D. Vi đi đến dựng xe mô tô trước cửa quán của chị Dương, rồi đi vào quán nước gọi nhưng không ai trả lời. Thấy vậy, V đi vào cửa chính và nhìn vào phòng khách thì phát hiện 01 (một) điện thoại Iphone 7 Plus, màu hồng của chị Dương đang cắm xạc pin để trên kệ tivi. V đi đến vị trí để điện thoại rút dây sạc lấy điện thoại bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe về huyện Lộc Ninh. Trên đường về nhà, V vào tiệm điện thoại “Quang Vinh” của anh Thượng Quang Vi, thuộc tổ 5, khu phố Phú Thuận, phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước bán điện thoại mà V vừa chiếm đoạt được của chị Dương. Khi bán điện thoại, V nói dối anh Vinh là điện thoại của V cần bán, anh Vinh kiểm tra máy và yêu cầu V cung cấp mật khẩu thì V nói đã quên, do đó anh Vinh chỉ đồng ý mua điện thoại trên với giá 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng).

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ 30 ngày 19/01/2020, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên Lương Thị Thúy V tiếp tục nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. V mượn xe mô tô biển kiểm soát 51X3 - 1589, của ông Nguyễn Văn Hùng (bố chồng V) đi từ xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh đến đến ngã tư Quốc Tế, thuộc thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản. Sau đó, V điều khiển xe mô tô rẽ phải đi được khoảng 50m nhìn bên trái đường thấy tiệm bán Phở của gia đình anh Vũ Ngọc T, cửa mở nhưng không người trông coi. Thấy vậy, V quay đầu xe mô tô và dựng sát lề đường trước cửa quán Phở và đi vào trong quán. Khi vào trong quán, V quan sát nhìn thấy một điện thoại di động Iphone 6 Plus bên ngoài lắp vỏ điện thoại di động Iphone 8 Plus của anh Tuấn đang cắm sạc để dưới nền nhà, V dùng tay rút dây sạc, cầm điện thoại bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô quay về huyện Lộc Ninh. Trên đường về nhà, V tiếp tục mang điện thoại đến tiệm điện thoại “Quang Vinh” của anh Thượng Quang Vi để bán. Lúc này, V nói với anh Vi: “Anh cho em bán điện thoại”, anh Vi nói: “Em mở cho anh mật khẩu để anh coi máy”, V trả lời: “Em bị quên mật khẩu nên em mới bán”. Thấy vậy, anh Vi từ chối mua điện thoại trên thì V nói: “Em cần tiền để mua sữa cho con”.

Nghe V nói vậy, anh Vi đồng ý mua điện thoại trên chỉ với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

Vụ thứ ba: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 18/01/2020, Lương Thị Thúy V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93H7-8017, từ huyện Lộc Ninh đi thành phố Đồng Xoài để lấy thuốc cho con. V điều khiển xe mô tô đến tổ 9, ấp 3B, xã Minh Hưng, huyện Chơn Thành thì vào tiệm tạp hóa không có biển hiệu của ông Vũ Đìnhh C để mua nước uống. Khi vào quán, V gọi nhưng không ai trả lời nên nhìn thấy 01 (một) kệ kim loại bên trên có một thùng nhựa màu đỏ không đậy nắp bên trong để tiền, V thò tay vào trong thùng nhựa màu đỏ và cầm 01 (một) nắm tiền mệnh giá 50.000đ, 100.000đ và 200.000đ bỏ vào túi quần. Lúc này, ông C đi vệ sinh vào thì V nói: “Bán cháu cái card”, ông C nói: “Không có”. Sau đó, V ra ngoài và điều khiển xe mô tô về hướng huyện Hớn Quản, ngay sau đó ông C phát hiện số tiền để bên trong thùng nhựa bị mất nên truy hô thì có 01 nam thanh niên đi đường (không xác định được tên) điều khiển xe mô tô chở ông C đuổi theo V, truy đuổi liên tục khoảng 3km đến tổ 3, khu phố Tàu Ô, thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản thì bắt giữ được V. Tại đây, V mang số tiền vừa chiếm đoạt được trả lại cho ông C, ông C đếm được tổng số tiền là:

1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng). Sau đó, V năn nỉ và trình bày hoàn cảnh gia đình nên ông C tha cho mà không báo sự việc trên đến Cơ quan Công an.

Quá trình điều tra truy xét, Công an thị trấn Tân Khai xác định: Lương Thị Thúy V là đối tượng nghi vấn đã thực hiện hành vi phạm tội nên đã mời V về Công an thị trấn Tân Khai để làm việc. Tại Công an thị trấn Tân Khai, Lương Thị Thúy V đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Bản kết luận định giá số 08/KL-HĐĐGTS, ngày 27/02/2020 và kết luận định giá số 26/KL-HĐĐGTS, ngày 06/04/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Bình Long xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt gồm: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu hồng có giá trị là: 5.850.000đ (Năm triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) và 01 ốp lưng điện thoại di động Iphone 7 Plus, có giá trị là:

50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản là: 5.900.000 đồng (Năm triệu chín trăm nghìn đồng).

Bản kết luận định giá số 04/KL- HĐĐGTSTTTHS, ngày 05/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hớn Quản kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus 64G bên ngoài lắp vỏ điện thoại di động Iphone 8 Plus tại thời điểm bị chiếm đoạt ngày 19/01/2020 có giá trị là: 2.250.000 đồng (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Lương Thị Thúy V về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Thị Thúy V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm s, n khoản 1 Điều 51, các điểm g, h khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lương Thị Thúy V mức hình phạt từ 24 tháng tù đến 28 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt của Bản án số 79/2019/HSST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lương Thị Thúy V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như sau: Do không có tiền tiêu xài nên bị cáo thực hiện 03 lần trộm cắp tài sản: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 06/12/2019, bị cáo đã trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus và 01 ốp lưng điện thoại Iphone 7 plus của chị Hồ Thùy D; Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 18/01/2020, bị cáo đã trộm cắp số tiền: 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng) của ông Vũ Đìnhh C; Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 19/01/2020, bị cáo tiếp tục trộm cắp 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus bên ngoài lắp vỏ điện thoại di động Iphone 8 Plus của anh Vũ Ngọc T.

[3] Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Lương Thị Thúy V là phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Biên bản hiện trường, kết luận định giá tài sản, phù hợp với vật chứng của vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hành vi 03 lần lén lút chiếm đoạt, trong đó chiếm đoạt của chị Hồ Thùy D 01 (một) điện thoại Iphone 7 và 01 ốp lưng điện thoại Iphone 7 plus, có tổng giá trị: 5.900.000 đồng; Chiếm đoạt của anh Vũ Ngọc T trộm 01 điện thoại di động Iphone 6 Plusbên ngoài lắp vỏ điện thoại di động Iphone 8 Plus, có giá trị là: 2.250.000 đồng; Chiếm đoạt của ông Vũ Đìnhh C 1.100.000đ tiền mặt. Tổng giá trị tài sản Lương Thị Thúy V chiếm đoạt là 9.250.000đ. Hành vi này của bị cáo Lương Thị Thúy V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Xét hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án, Tại Bản án số 79/2019/HSST ngày 30/8/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm kể từ ngày tuyên án, về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tự cải tạo bản thân thành người lương thiện mà tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo là người không ăn năn hối cải, coi thường pháp luật, nên cần thiết xử phạt bị cáo mức án nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Tính đến ngày 18/01/2020 (Ngày phạm tội mới), thì bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo của Bản án số 79/2019/HSST ngày 30/8/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo của Bản án số 79/2019/HSST ngày 30/8/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành và tổng hợp hình phạt của 02 bản án, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án.

[6] Bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt 03 lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” và tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại các điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 áp dụng để xử phạt bị cáo.

[7] Theo Phiếu khám thai ngày 23/02/2020 của Bệnh viện Từ Dũ (Bút lục 103) chuẩn đoán: Thai lưu 35 tuần, 06 ngày (Tương đương 08 tháng 11 ngày). Như vậy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần này là trong thời gian đang mang thai, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội là phụ nữ có thai” và tình tiết “Thành khẩn khai báo”. Ngoài ra bị cáo còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ khác: Bị cáo là người bị bệnh HIV, hiện đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm n, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[8] Đối với hành vi của anh Thượng Quang Vi, do không biết được điện thoại của bị cáo V mang đến bán là tài sản do phạm tội mà có, nên hành vi của anh Vi không có dấu hiệu tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là phù hợp.

[9]Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Hồ Thùy D đã được nhận lại chiếc điện thoại Iphone 7 và 01 ốp lưng điện thoại Iphone 7 plus; Bị hại Vũ Ngọc T được nhận lại chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus; Bị hại Vũ Đìnhh C đã được nhận số tiền 1.100.000đ, không ai có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Đối với số tiền anh Thượng Quang Vi đã giao nộp lại các điện thoại di động mua của bị cáo V cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, nhưng không yêu cầu bị cáo V phải hoàn trả lại số tiền mà anh Vi bỏ ra để mua điện thoại của bị cáo V vì bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ (Bl 255). Ý kiến này là sự tự nguyện của anh Thượng Quang Vi, không vi phạm pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 6 Plus 64G bên ngoài lắp vỏ điện thoại di động Iphone 8 Plus, Số IMEI: 353298070716470 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hớn Quản đã trả lại cho bị hại Vũ Ngọc T; 01 (một) điện thoại Iphone 7 Plus màu hồng, số IMEI: 356573083059572 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Bình Long đã trả lại cho bị hại Hồ Thùy D, là phù hợp nên không đề cập xử lý.

- 01 (một) hộp box bằng giấy, màu trắng, phần thân hộp ghi dòng chữ: IPhone 6S Plus, phần đáy hộp có thông số kỹ thuật, cụ thể như sau: (1P) Part No: MKTU2LL/A;

(S) Serial No: C39QG7QUGRX4; ICCID: 89014104278418841716; IMEI/MEID:

353298070716470 không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) nón bảo hiểm, màu xanh, nhãn hiệu: K&Y HELMET; 01 (một) cái áo khoác bằng vải Jeans, màu xanh, nhãn hiệu: millers của bị cáo không phải là vật chứng vụ án nên trả lại cho bị cáo V.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 93H7-8017, nhãn hiệu: Honda, loại Wave, ngày 06/12/2019 bị cáo sử dụng làm phương tiện đi gây án. Sau đó, bị cáo V đã bán lại cho người đàn ông (không xác định lai lịch), do đó không đề cập xử lý.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 51X3 – 1589, nhãn hiệu: Honda, loại Wave, màu: Xanh, ngày 19/01/2020 bị can V dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định được xe mô tô này do bị cáo V mượn của ông Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1962, trú tại tổ 5, ấp Hưng Thịnh, xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Sau đó, V đã trả lại xe mô tô trên cho ông H, khi cho vi mượn ông H không biết vi dùng làm phương tiện phạm tội và ông H cũng đã bán xe mô tô này cho 01 người đàn ông (không xác định lai lịch), đến nay không thu hồi được, do đó không đề cập xử lý.

[11] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật;

[12] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Thị Thúy V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm n, s khoản 1 Điều 51; các điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ được chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lương Thị Thúy V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 56; khoản 5 Điều 65; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lương Thị Thúy V 12 (Mười hai) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 06 (Sáu) tháng tù của Bản án 79/2019/HS-ST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, buộc bị cáo Lương Thị Thúy V phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là: 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp box bằng giấy, màu trắng, phần thân hộp ghi dòng chữ: IPhone 6S Plus, phần đáy hộp có thông số kỹ thuật, cụ thể như sau: (1P) Part No: MKTU2LL/A; (S) Serial No:C39QG7QUGRX4; CCID: 89014104278418841716; IMEI/MEID:353298070716470 không có giá trị sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Lương Thị Thúy V 01 (một) nón bảo hiểm, màu xanh, nhãn hiệu: K&Y HELMET; 01 (một) cái áo khoác bằng vải Jeans màu xanh, nhãn hiệu: Millers.

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lương Thị Thúy V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 47/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;